Chuyển đến nội dung chính

Chính sách quyền riêng tư,

Sâu đục quả, sâu đục trái

 Sâu đục quả, sâu đục trái


Tên khoa học: Conopomorpha cramerella

Tên tiếng Anh: cacao moth; cocoa moth; javanese cocoa moth; rambutan borer; ram-ram borer

Tên tiếng Tây Ban Nha: polilla javanesa del cacao

Tên tiếng Pháp: teigne javanaise du cacaoyer

Triệu chứng, tập quán sinh sống và gây hại của sâu đục quả, đục trái Conopomorpha cramerella

+ Sâu đục trái chôm chôm: Thành trùng cái đẻ từng trứng trên cuống trái. Trên cây chôm chôm, loài này gây hại vào giai đoạn trái trưởng thành và chín. Trưởng thành đẻ trứng trên cuống trái, ấu trùng sau khi nở đục vào và ăn phần thịt trái hoặc vỏ hạt tạo thành những đường hầm ngoằn ngoèo, đôi khi đục cả vào hạt. Sâu non gây hại nặng nhất khi trái bắt đầu có cơm. Trái non bị sâu đục thường biến dạng, khô rỗng và rụng, trái lớn bị giảm phẩm chất.

+ Sâu đục trái ca cao: Sâu đục trái thường đục thành các đường hầm trên vỏ quả. Sâu non mới nở sống bằng dịch trong cơ thể hoặc ăn lớp bột ở trong vỏ quả cho đến khi phát triển đầy đủ. Đường đục của sâu non dài từ 4-5cm trên vỏ quả (thường đục thành các đường hầm vuông góc với chiều dài của quả và xuyên qua lớp vỏ thóc cho đến khi chạm tới lớp xơ cứng của vỏ, hoặc đục thành các đường hầm dọc theo chiều dài quả), sau khi đục sâu vào bên trong, sâu non ăn lớp chất nhầy trong thịt quả do đó ảnh hưởng đến sự phát triển của quả và làm quả bị biến dạng. Vỏ quả bị sâu đục trái tấn công thường có màu sắc không đều, chín ép nên có chỗ vàng, chỗ xanh.

- Bên trong vỏ, các đường đục trở nên ngoằn nghèo. Phần lớn sâu non được phát hiện từ vỏ quả ca cao khi quả bước vào giai đoạn chín. Sâu non tuổi cuối thường có màu xanh lá cây, dài khoảng 12mm. Sâu non sau khi chui ra khỏi đường hầm thường để lại một lỗ nhỏ có đường kính khoảng 1mm.

- Nhộng hình thành ở bên ngoài lớp vỏ, ấu trùng đẫy sức bò đến một vị trí thích hợp để hóa nhộng. Nhộng thường xuất hiện ở các rãnh của vỏ quả hoặc trên các lá còn xanh hoặc lá đã khô và các tàn dư khác.

Đặc điểm sinh học, hình thái và sinh thái của sâu đục quả, đục trái Conopomorpha cramerella

* Vòng đời: 27 - 35 ngày

- Trứng: 4 - 6 ngày: Trứng hình bầu dục dẹp, kích thước khoảng 2 mm, mới đẻ màu trắng sữa, sau chuyển màu vàng. Trứng  đẻ đơn lẻ từng quả ở  bất cứ vị trí nào trên bề mặt vỏ quả, trứng mới đẻ màu vàng cam, hình bầu dục chiều dài không quá 0,5 cm. Khi sắp nở, trứng chuyển sang màu trắng đục, vỏ màu trắng  bên trong có màu đen.

- Sâu non: 14 - 16: Ấu trùng mới nở có màu trắng sữa (dài khoảng 1mm), đầu nâu, sau chuyển sang màu hồng nhạt, trên mỗi đốt phía lưng có 4 đốm nâu nhạt, trên mỗi đốt có lông cừng nhỏ, đẫy sức dài 22 mm. 

- Nhộng: 7-10 ngày: Nhộng màu nâu nhạt được bao bọc bởi một kén bằng tơ, sâu thường hoá nhộng ở kẻ trái hoặc nơi tiếp giáp giữa 2 trái.

- Trưởng thành: Trưởng thành là loài ngài nhỏ có chiều dài sải cánh 25 mm, toàn thân và cánh màu nâu nhạt, trên cánh có nhiều chấm đen, râu và chân rất dài, cánh trước có hình lá liễu thon dài có những vân trắng, cánh sau hình dùi, rìa cánh mang nhiều lông tơ.

+ Bướm hoạt động mạnh nhất vào ban đêm, bám trên chum hoa hút mật và đẻ trứng trên trái non. Trưởng thành, giao phối, đẻ trứng vào ban đêm. Một trưởng thành cái có thể đẻ từ 50-100 trứng trong một vòng đời.

+ Ban ngày trưởng thành thường ở trên các nhánh của cây. Màu sắc của trưởng thành thường giống với vỏ thân cây nên rất khó phát hiện.

Biện pháp phòng trị sâu đục quả, đục trái Conopomorpha cramerella

- Biện pháp canh tác:

+ Cần thu hoạch trái triệt để để loại bỏ tất cả các tàn dư mà sâu đục trái đã tấn công ra khỏi khu vực canh tác ca cao từ đó phá vỡ chu kỳ gây hại của chúng.

+ Dùng túi nilon để bao trái hạn chế trưởng thành sâu đục trái đẻ trứng trên vỏ quả đồng thời bảo vệ trái khỏi sự tấn công của các loài sâu hại khác. Túi được cắt đáy để thông gió và sẽ được giữ trong suốt thời gian sinh trưởng của quả cho đến lúc thu hoạch.

+ Bón phân đầy đủ, cân đối để cây luôn khỏe mạnh, trái to và giúp vỏ trái cứng làm giới hạn sự xâm nhập của sâu.

- Thiên địch của sâu đục trái:

Trong tự nhiên trứng sâu đục trái Conomorpha cramerella bị ký sinh bỡi ong ký sinh họ Trichogrammatidae và kiến, do đó tạo điều kiện thuận lợi cho các loài này phát triển cũng giảm được thiệt hại do sâu gây ra.

Trong tự nhiên trứng sâu đục trái bị ký sinh bởi ong ký sinh họ Trichogrammatidae và kiến, do đó tạo điều kiện thuận lợi cho các loài này phát triển cũng giảm được thiệt hại do sâu gây ra.

- Biện pháp hóa học:

Có thể phun thuốc để Phòng trị bằng các loại thuốc như Fenbis 25EC 30-35cc/8lít, Sago super 10EC 25-30cc/8lít, Karate, Polytrin, Cymbush...

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây

  Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây Tên khoa học:  Globodera rostochiensis Wollenweber, 1923,G.pallida Stone, 1973           Là một trong những loài tuyến trùng hại khoai tây. Nếu cây bị nhiễm làm cho cây phát triển còi cọc, lá héo có thể làm chết cây. Nhiễm ở mức nghiêm trọng dẫn đến thiệt hại năng suất củ lên đến 80%. 1. Nguồn gốc           Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây là do tuyến trung G.pallida gây nên. Loại tuyến trùng này là loài phi bản địa có nguồn gốc từ Châu Âu. Lần đầu tiên phát hiện ở miền đông Idaho trong tháng 4 năm 2006. Cho đến nay, nó được phát hiện thấy và bị hạn chế tại 17 cánh đồng bị nhiễm khuẩn đại diện cho tổng số 1.916 mẫu Anh ở Bingham và Bonneville của Idaho. Mặc dù G.pallida bị giới hạn phân bố địa lý, sự hiện diện của chúng trong đất trồng tại mỹ đã có tác động sâu rộng làm đóng cửa, hạn chế thị trường xuất khẩu, giảm giá trị đất nông nghiệp và các khó khăn kinh tế khác. 2. Triệu chứng           Triệu chứng thể hiện lá biến vàng, l

Bệnh lùn sọc đen hại lúa, ngô

  Bệnh lùn sọc đen hại lúa, ngô Tên khoa học:  SRBSDV (Southern Rice Black-Streaked Dwarf Virus)            Để hạn chế tối đa ảnh hưởng,giảm mức thiệt hại do bệnh gây ra, người dân cần thiết áp dụng các biện pháp đồng bộ phòng trừ kịp thời ngay từ đầu vụ mới có thể đảm bảo năng suất lúa, ngô. 1 Triệu chứng gây hại 1.1 Gây hại trên cây lúa - Khi bắt đầu nhiễm bệnh rễ cây vẫn phát triển bình thường, về sau rễ kém phát triển dần, ngắn và sau đó chết. - Triệu chứng điển hình để nhận biết được xác định ít nhất 2 tuần qua môi giới truyền bệnh là rầy mang virus chích hút vào cây lúa khỏe. - Cây bị bệnh thường thấp lun, lá xanh đập hơn bình thường. Lá lúa bị xoăn ở đầu lá hoặc toàn bộ lá. Gân lá ở mặt sau bị sưng lên. Khi cây còn nhỏ, gân chính trên bẹ lá cũng bị phồng sưng. - Nếu cây bị nhiễm ở giai đoạn làm đòng và khi lúa có lóng, cây nhiễm bệnh thường nảy chồi trên đối thân và mọc nhiều rễ bất định. Trên bẹ và lóng thân mọc nhiều u sáp và bọc đen. Ở giai đoạn lúa trỗ, triệu c

Cây dược liệu Dây bông xanh

  Cây Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora (Roxb. ex Rottl.) Roxb Dược liệu Dây bông xanh có vị ngọt, tính bình; có tác dụng tiêu sưng, tiêu viêm, làm lành vết thương. Vỏ rễ dùng chữa đòn ngã tổn thương, đụng giập. Lá sắc uống dùng trị đau dạ dày. Dây và lá dùng đắp ngoài trị rắn cắn, đinh nhọt.   Hình ảnh cây Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora (Roxb. ex Rottl.) Roxb., thuộc họ Dây bông xanh - Thunbergiaceae. Bộ phận dùng:  Vỏ rễ, dây và lá -  Cortex Radicis, Caulis et Folium Thunbergiae . Nơi sống và thu hái:  Cây của vùng Đông Dương, mọc hoang ở đồng bằng và vùng núi nhiều nơi khắp nước ta. Cũng được trồng làm cây cảnh. Thu hái rễ vào mùa hè thu, tách lấy vỏ và bỏ lõi gỗ. Thu hái dây và lá quanh năm, dùng tươi hay phơi khô trong râm để dùng dần. Tính vị, tác dụng:  Dây bông xanh có vị ngọt, tính bình; có tác dụng tiêu sưng, tiêu viêm, làm lành vết thương. Công dụng, chỉ định và phối hợp:  Vỏ rễ dùng chữa đòn n