P2: Dinh dưỡng trung lượng
1.1. Vai trò của canxi (Ca)
Về mặt sinh lý dinh dưỡng, canxi kết tủa axit pectic
tạo thành pectat canxi, thành phần quan trọng trong vách tế bào. Canxi do vậy
giữ cho thành tế bào được vững chắc. Bón đủ canxi khả năng chịu vận chuyển của
quả tăng lên.
Hàm lượng tổng
số trong cây: 0,2 - 1,0. Dạng hút: Ca++.
Canxi duy trì cân bằng anion - cation trong tế bào.
Trong sinh lý dinh dưỡng, Ca++ đối kháng với nhiều cation khác (Mg++, K+, Na+, NH4+) nên canxi hạn chế sự xâm nhập quá đáng các cation này vào tế bào. Trong trường hợp thiếu canxi cây dễ bị ngộ độc các nguyên tố vi lượng. Canxi được xem là yếu tố chống độc cho cây.
Trong môi
trường nhân tạo, thiếu Ca++ chức năng
sinh lý của rễ không bình thường, cây không đồng hóa được nitrat (NO3-) và thấy
có hiện tượng tích lũy gluxit trong tế bào. Trao đổi chất trong cây bị rối loạn
khi môi trường dinh dưỡng thiếu canxi. Lúa thiếu Ca++ cây
mẫn cảm hơn với ngộ độc sắt (A. Dobermann và T. Fairhurst, 2000).
Ca++ làm giảm tính thấm nước của màng tế bào, làm
giảm việc hút nước của cây mà lại tăng cường việc thoát hơi nước. Đối với việc
tiết kiệm nước tác dụng của Ca++ ngược lại
tác dụng của K+.
Canxi thường không di chuyển trong cây nên triệu chứng
thiếu canxi thường xuất hiện ở các cơ quan dự trữ và quả. Thiếu canxi chồi tận
cùng và đầu chóp rễ ngừng phát triển. Rốn quả cà chua bị đen cũng là do thiếu
canxi.
Về mặt dinh
dưỡng, do nhu cầu cân đối Ca/Mg > 1, đứng về mặt dinh dưỡng lượng Ca++ trao đổi trong đất thấp nhất là 0,4 lđl/100
gam đất.
Về mặt cải tạo
đất khi Ca++ <2 lđl/100 gam đất đã cần phải bón vôi
(Mandra, 1975).
Theo Lê Văn
Tiềm (2003), đất đỏ vàng và nâu đỏ của Việt Nam hàm lượng Ca++ <2 lđl/100 gam đất là nghèo.
1.2. Vai trò của Magie (Mg)
Hàm lượng tổng số trong cây:
0,1 - 0,4; Dạng hút: Mg++
Magiê kích thích hoạt động của nhiều loại men. Magiê là thành phần của diệp lục cho nên magiê liên quan đến việc đồng hóa CO2 và tổng hợp prôtêin. Magiê cũng điều chỉnh pH và cân bằng cation-anion nội bào. Magiê rất linh động, sẵn sàng di trú từ các lá già đến các lá non hơn cho nên triệu chứng thiếu magiê có khuynh hướng xuất hiện ở các lá già trước.
Tùy theo tình hình năng suất, chế độ bón
phân hóa học và thành phần cơ giới đất mà tính toán bù đủ lượng magiê bị lấy đi
theo sản phẩm thu hoạch và việc rửa trôi magiê.
Đối với cây trồng khi lượng magiê trao đổi
đạt 0,28 - 0,40 lđl/100 gam đất, tùy theo loại đất và cây, cây trồng không phản
ứng với việc bón magiê nữa (Lombin và Fayemi, 1975).
1.3. Vai trò của Lưu huỳnh (S)
Hàm lượng tổng số trong cây:
0,1 - 0,4; Dạng hút: SO4--
Lưu huỳnh là thành phần của các axit amin quan trọng (xystin, xystêin và mêtionin). S không có trong diệp lục song lại có vai trò tích cực trong việc tổng hợp diệp lục cho cây xanh. Trong thành phần prôtein có lưu huỳnh nên không thể thiếu lưu huỳnh khi cây tổng hợp prôtêin, lưu huỳnh cũng có trong thành phần của tiamin và biotin, hai kích thích tố thực vật (phytohocmon) cần cho việc trao đổi hydrat cacbon. Lưu huỳnh cũng tham gia một số phản ứng oxyhóa - khử trong tế bào.
Các cây bộ đậu, cây lấy dầu, cây bộ thập
tự, cây gia vị là những cây có nhu cầu S cao. Đất cát, đất bạc màu nghèo chất
hữu cơ thường nghèo lưu huỳnh. Đất bazan nghèo lưu huỳnh cà phê dễ bị bạc lá
(Tôn Nữ Tuấn Nam, 2000).
Các vùng gần các trung tâm đô thị, khu công
nghiệp sử dụng than và dầu làm nhiên liệu, môi trường không khí bị ô nhiễm SO2
cây thường không thiếu lưu huỳnh.
Nhận xét
Đăng nhận xét