Chuyển đến nội dung chính

Chính sách quyền riêng tư,

Nguồn gốc và phân loại dưa lê (dưa thơm)

 Nguồn gốc và phân loại dưa lê (dưa thơm)


1. Nguồn gốc dưa lê (dưa thơm)

Dưa lê thuộc nhóm dưa thơm Cucumis melo L. là một loại cây trồng nông nghiệp quan trọng được trồng rộng rãi trên thế giới. Trong chi Cucumis, nó thuộc về phân chi melo, có 2n = 24 nhiễm sắc thể. Các loài khác nhau có sự biến đổi hình thái quả ở các đặc điểm như kích thước, hình dạng, màu sắc, kết cấu, hương vị và thành phần các chất dinh dưỡng. Do đó C. melo được coi là loài đa dạng nhất trong chi Cucumis (Whitaker and Davis, 1962; Jeffrey, 1980; Kirkbride, 1993; Bates and Robinson, 1995).

Tài liệu rộng rãi cũng được tìm thấy trong các tác phẩm Trung Quốc cổ đại từ khoảng năm 2000 TCN (Walters, 1989) và các văn bản Hy Lạp, La Mã từ thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Pangalo (1929) cho rằng loại dưa không ngọt được biết đến trong thời kỳ La Mã và được nhập khẩu từ Ba Tư hay hành lý của du khách làm cho chúng xuất hiện ở châu Âu từ khoảng thế kỷ thứ 13 (Stepansky et al., 1999).

Theo Milind and Kulwant (2011) dưa thơm lần đầu tiên được khám phá bởi Linné vào năm 1753. Nó là một chi trong họ bầu bí gồm 118 chi và 825 loài.  Nguồn gốc của dưa thơm vẫn đang được tranh cãi, nhưng những nghiên cứu gần đây chỉ ra rõ  ràng nguồn gốc của dưa thơm là ở phía nam và phía đông châu Phi. Dưa thơm đã có thể được trồng ở Trung Quốc từ 2000 năm trước Công nguyên. Một vài dạng cây trồng và cây hoang dại đã phát triển trên toàn thế giới ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Hiện nay, Trung Quốc và Mỹ có sản lượng dưa thơm cao nhất.

Như vậy dưa thơm có nguồn gốc từ Ấn Độ và châu Phi; Người Ai Cập là những người đầu tiên trồng loài cây này, sau đó là người Hy Lạp và La Mã. Và ngày nay dưa được trồng nhiều nơi trên thế giới.

2. Phân loại dưa lê (dưa thơm)

Theo các tác giả Grebenscikov (1953), Jeffrey (1980), Zohary (1983) và Kirkbride (1993), loài C. melo chia thành hai loài phụ: ssp. melo và ssp. agrestis. Theo các tác giả trên, cả hai loài phụ bao gồm các dạng hoang dại, những dạng hoang dại của ssp. melo tương tự với C. trigonus Boiss và C. callosus (Stepansky et al., 1999)

Năm 1753 Linné đặt tên là chi Cucumis và mô tả năm loài dưa trồng. Những loài đó sau này được thống nhất thành một loài duy nhất là Cucumis melo L. bởi Naudin (1859), người đã phát triển một hệ thống phân loại dựa trên một bộ sưu tập sống 2000 mẫu vật. Naudin chia dưa thành 10 giống, và đó là cơ sở của tất cả các nghiên cứu sau này.  Pangalo (1929) đã trực tiếp nghiên cứu 3000 mẫu vật tại Viện Vavilov, và đề xuất một hệ thống phân loại kỹ hơn dựa trên ý tưởng của dãy tương đồng (Stepansky et al., 1999).

Phân loại dưa theo Pangalo (1929), Grebenscikov (1953), Naudin (1959), Hammer et al. (1986), Munger and Robinson (1991) C. melo được chia thành 7 giống:

1. C. melo var. agrestis: là giống hoang dại, đơn tính cùng gốc ở Châu Phi và các nước châu Á. Thân mỏng, quả không ăn được, hạt nhỏ.

2. C. melo var. cantalupensis: Quả trung bình hoặc lớn, vỏ quả mịn hoặc vân lưới hoặc có vảy. Quả thơm, có vị ngọt. Hoa đơn tính cùng gốc, bầu nhụy có lông. Các giống Galia, Ananas, Charentais thuộc loại này.

3. C. melo var. inodorus: là dưa đông, quả lớn, không thơm với vỏ mềm, dày hoặc có nhiều vết sần. Gồm các loại dưa ngọt tráng miệng của Châu Á và Tây Ban Nha như Honeydew, Casaba. Thường đơn tính cùng gốc, bầu nhụy có lông.

4. C. melo var. flexuosus: Quả dạng dài, không ngọt, khi chưa chín ăn như dưa chuột. Tìm thấy ở Trung Đông và châu Á. Là loại có hoa lưỡng tính.

5. C. melo var. conomon.: Là giống Viễn Đông, thịt quả trắng, mềm; vỏ quả mỏng, có thể ngâm muối hoặc ăn tươi, quả giòn ngọt ăn được cả vỏ. Cây đơn tính cùng gốc với lá có gai.

6. C. melo var. chito và dudaim : Được mô tả bởi Naudin, nhưng nhóm lại với nhau bởi Munger and Robinson. Là dạng hoang dại của Mỹ, nhỏ cỡ trái mận, quả thơm, có thể sử dụng để ngâm muối, cây có hoa lưỡng tính, bầu nhụy có lông. Thường trồng làm cảnh trong vườn.

7. C. melo var. Momordica: Cây leo đơn tính cùng gốc, bầu nhụy có lông mịn, quả không ngọt, vỏ mỏng và nứt khi chín.

Theo phân loại Wikipedia, bách khoa toàn thư: Dưa thuộc chi Cucumis là trái cây ăn được. Nhưng chỉ một số ít dưa ăn được thuộc loài Cucumis melo L.

1. C. metuliferus (Dưa sần): là thực phẩm truyền thống của Châu Phi, có gai. Hiện loài này cũng được trồng ở CaliforniaChileAustralia và New Zealand.

2. C. melo: Bao gồm các dạng sau:

2.1. C. melo cantalupensis: có vỏ xù xì, sần, không có vân lưới. Gồm có:

- Dưa đỏ Châu Âu: Vỏ có gân nhẹ, màu xanh nhạt, được du nhập từ thế kỷ 18 vào Cantalupo, SabinaItaly bởi người làm vườn của Đức giáo hoàng.

- Dưa ba Tư: Là dạng dưa lớn với vỏ màu xanh đậm, có vân lưới.

2.2. C. melo inodorus gồm các dạng:

- Dưa hàn quốc: Là dưa màu vàng với những đường trắng chạy ngang quả, thịt quả màu trắng. Quả có thể giòn, hơi ngọt hoặc ngọt hơn khi để chín kĩ.

- Dưa Canary: Là dạng dưa quả lớn, màu vàng sáng với thịt quả màu xanh nhạt tới trắng.

- Dưa Casaba: Vỏ quả nhẵn, có rãnh, màu vàng sáng. Dưa này ít hương vị hơn các loại khác nhưng để chín lâu hơn.

- Dưa Hami : Có nguồn gốc từ Hami, Tân Cương, Trung Quốc. Thịt quả giòn và ngọt.

- Dưa Honeydew: Thịt quả ngọt, màu xanh, đươc trồng ở Lan Châu, Trung quốc. Có 1 loại khác với vỏ vàng, thịt quả trắng và vị giống quả lê.

- Dưa Kolkhoznitsa: Với vỏ quả vàng, nhẵn, thịt quả trắng, đặc ruột.

- Dưa Piel de Sapo (toad skin) hoặc dưa Santa Claus: Có vỏ quả xanh đốm, thịt quả trắng, ngọt.

- Dưa đường: Quả tròn, nhẵn, màu trắng.

- Dưa Tiger: Là loại dưa của Thổ Nhĩ Kỳ, có sọc đen, vàng và cam, có thịt quả mềm.

- Dưa Nhật Bản gồm cả dưa Sprite.

2.3. C. melo reticulatus là dưa vân lưới gồm :

- Dưa đỏ Bắc Mỹ: Là dưa Bắc Mỹ khác với giống Châu Âu. Dạng này có vân lưới nhiều hơn các loại khác cùng thuộc C. melo reticulatus

- Dưa Galia (hoặc Ogen): Quả nhỏ, rất ngọt, thịt quả màu hồng hoặc xanh nhạt.

- Dưa Sharlyn: Có vị giữa honeydew và cantaloupe, vỏ quả có vân lưới, màu cam hơi xanh, thịt quả màu trắng.

2.4. Các giống hiện đại: Là các giống lai giữa các dạng trên, ví dụ như Crenshaw (Casaba × Persian), Crane (Japanese × N.A. cantaloupe).

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây

  Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây Tên khoa học:  Globodera rostochiensis Wollenweber, 1923,G.pallida Stone, 1973           Là một trong những loài tuyến trùng hại khoai tây. Nếu cây bị nhiễm làm cho cây phát triển còi cọc, lá héo có thể làm chết cây. Nhiễm ở mức nghiêm trọng dẫn đến thiệt hại năng suất củ lên đến 80%. 1. Nguồn gốc           Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây là do tuyến trung G.pallida gây nên. Loại tuyến trùng này là loài phi bản địa có nguồn gốc từ Châu Âu. Lần đầu tiên phát hiện ở miền đông Idaho trong tháng 4 năm 2006. Cho đến nay, nó được phát hiện thấy và bị hạn chế tại 17 cánh đồng bị nhiễm khuẩn đại diện cho tổng số 1.916 mẫu Anh ở Bingham và Bonneville của Idaho. Mặc dù G.pallida bị giới hạn phân bố địa lý, sự hiện diện của chúng trong đất trồng tại mỹ đã có tác động sâu rộng làm đóng cửa, hạn chế thị trường xuất khẩu, giảm giá trị đất nông nghiệp và các khó khăn kinh tế khác. 2. Triệu chứng           Triệu chứng thể hiện lá biến vàng, l

Bệnh lùn sọc đen hại lúa, ngô

  Bệnh lùn sọc đen hại lúa, ngô Tên khoa học:  SRBSDV (Southern Rice Black-Streaked Dwarf Virus)            Để hạn chế tối đa ảnh hưởng,giảm mức thiệt hại do bệnh gây ra, người dân cần thiết áp dụng các biện pháp đồng bộ phòng trừ kịp thời ngay từ đầu vụ mới có thể đảm bảo năng suất lúa, ngô. 1 Triệu chứng gây hại 1.1 Gây hại trên cây lúa - Khi bắt đầu nhiễm bệnh rễ cây vẫn phát triển bình thường, về sau rễ kém phát triển dần, ngắn và sau đó chết. - Triệu chứng điển hình để nhận biết được xác định ít nhất 2 tuần qua môi giới truyền bệnh là rầy mang virus chích hút vào cây lúa khỏe. - Cây bị bệnh thường thấp lun, lá xanh đập hơn bình thường. Lá lúa bị xoăn ở đầu lá hoặc toàn bộ lá. Gân lá ở mặt sau bị sưng lên. Khi cây còn nhỏ, gân chính trên bẹ lá cũng bị phồng sưng. - Nếu cây bị nhiễm ở giai đoạn làm đòng và khi lúa có lóng, cây nhiễm bệnh thường nảy chồi trên đối thân và mọc nhiều rễ bất định. Trên bẹ và lóng thân mọc nhiều u sáp và bọc đen. Ở giai đoạn lúa trỗ, triệu c

Cây dược liệu Dây bông xanh

  Cây Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora (Roxb. ex Rottl.) Roxb Dược liệu Dây bông xanh có vị ngọt, tính bình; có tác dụng tiêu sưng, tiêu viêm, làm lành vết thương. Vỏ rễ dùng chữa đòn ngã tổn thương, đụng giập. Lá sắc uống dùng trị đau dạ dày. Dây và lá dùng đắp ngoài trị rắn cắn, đinh nhọt.   Hình ảnh cây Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora (Roxb. ex Rottl.) Roxb., thuộc họ Dây bông xanh - Thunbergiaceae. Bộ phận dùng:  Vỏ rễ, dây và lá -  Cortex Radicis, Caulis et Folium Thunbergiae . Nơi sống và thu hái:  Cây của vùng Đông Dương, mọc hoang ở đồng bằng và vùng núi nhiều nơi khắp nước ta. Cũng được trồng làm cây cảnh. Thu hái rễ vào mùa hè thu, tách lấy vỏ và bỏ lõi gỗ. Thu hái dây và lá quanh năm, dùng tươi hay phơi khô trong râm để dùng dần. Tính vị, tác dụng:  Dây bông xanh có vị ngọt, tính bình; có tác dụng tiêu sưng, tiêu viêm, làm lành vết thương. Công dụng, chỉ định và phối hợp:  Vỏ rễ dùng chữa đòn n