Chuyển đến nội dung chính

Câu chuyện về vải thiều

  Câu chuyện về vải thiều bắt đầu từ lịch sử phát triển của ngành trồng cây này và những câu chuyện thú vị liên quan đến nó. Dưới đây là một tóm tắt về câu chuyện và lịch sử của vải thiều: Xuất xứ và lịch sử: Vải thiều là loại cây ăn quả có nguồn gốc từ Trung Quốc, được trồng từ hàng ngàn năm trước đây. Theo truyền thuyết, vải thiều đã được tìm thấy và trồng lần đầu tiên tại vùng Thiều Châu, Trung Quốc. Từ đó, nó đã lan rộng sang các khu vực khác trên thế giới, bao gồm Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc và nhiều quốc gia khác. Quan trọng với khu vực Vải Thiều Bắc Giang: Tỉnh Bắc Giang ở Việt Nam đã trở thành nơi nổi tiếng với trồng vải thiều. Vải thiều Bắc Giang đã được công nhận là một trong những thương hiệu nổi tiếng của Việt Nam và có xuất khẩu sang nhiều quốc gia trên thế giới. Câu chuyện về sự quan trọng của vải thiều trong văn hóa địa phương: Vải thiều không chỉ là một loại cây trồng phổ biến, mà còn trở thành một biểu tượng văn hóa và kinh tế đặc trưng của một số khu vực. Ví dụ, ở Bắ

Nên bón Đạm dạng Amon hay dạng Nitorat? Phân biệt đạm gốc NH4+ và NO3-

 Nên bón Đạm dạng Amon hay dạng Nitorat? Phân biệt đạm gốc NH4+ và NO3-


Quy trình chuyển đổi nitơ trong đất

Ba nguồn cung cấp đạm (N) cho cây được sử đạm Urê, đạm gốc Amoni và đạm gốc Nitrat (Nitorat). Quá trình oxy hóa sinh học của Amoniac thành Nitrat (Nitorat) được gọi là quá trình Nitrat (Nitorat) hóa. Quá trình này bao gồm các giai đoạn khác nhau (hình 1), và phụ thuộc vào vi khuẩn tự dưỡng, hiếu khí bắt buộc, trong dung dịch đất (đất bão hòa với nước), quá trình oxy hóa NH4+ bị hạn chế.

Urê bị phân hủy bởi urease hoặc thủy phân hóa học thành amoniac và CO2. Trong quá trình ammon hóa, amoniac được chuyển thành Amoni nhờ vi khuẩn oxy hóa. Trong quá trình tiếp theo Amoni được chuyển thành Nitrat (Nitorat) bởi vi khuẩn Nitrat (Nitorat) hóa (quá trình Nitrat (Nitorat) hóa).

Tốc độ chuyển đổi nitơ phụ thuộc vào các điều kiện có trong đất đối với vi khuẩn Nitrat (Nitorat) hóa. Quá trình Nitrat (Nitorat) hóa NH4+ thành NO 3 - tốt nhất là xảy ra trong các điều kiện sau:

·         Trong sự hiện diện của vi khuẩn Nitrat (Nitorat) hóa.

·         Nhiệt độ đất > 20 ° C.

·         pH đất từ ​​5,5 đến 7,5.

·         Độ ẩm và oxy có sẵn trong đất.

Amoni có thể tích lũy trong đất khi quá trình chuyển đổi nitơ này bị hạn chế hoặc dừng hoàn toàn nếu có một hoặc nhiều điều kiện đất sau đây (Mengel và Kirkby, 1987):

·         Điều kiện pH đất thấp làm giảm đáng kể quá trình oxy hóa vi khuẩn NH4+ .

·         Thiếu oxy (ví dụ đất ngập nước).

·         Thiếu chất hữu cơ (làm nguồn carbon cho vi khuẩn).

·         Đất khô.

·         Nhiệt độ đất thấp làm chậm quá trình Nitrat (Nitorat) hóa do vi sinh vật ít hoạt động.

·         Nitrat (Nitorat) hóa đạt tối ưu ở 26°C, trong khi tối ưu hóa ngưỡng giới hạn tối ưu cho quá trình ammon hóa lên tới 50°C. Do đó, trong đất nhiệt đới, ngay cả ở pH trung tính, amoni có thể tích lũy do quá trình Nitrat (Nitorat) hóa thấp

Ưu điểm của Nitrat (Nitorat) so với phân bón có chứa amoni

Nitrat (Nitorat) là nguồn lựa chọn cho việc cung cấp đạm (N) tối ưu cho cây trồng (hình 2).

·         Đạm gốc Nitrat (Nitorat) không bay hơi: không giống như đạm gốc Amoni, đạm gốc Nitrat (Nitorat) không bay hơi, do đó không cần thiết phải khi bón phải lấp đất vì vậy tiện lợi cho việc chăm bón.

·         Nitrat (Nitorat) di động trong đất - giúp cây trồng hấp thụ trực tiếp, đẹm lại hiệu quả hấp thụ đạm cao.

·         Nitrat (Nitorat) gốc NO3- có điện tích âm nên hỗ trợ việc hút các cation như K+, Ca2+ và Mg2+ và các Cation kim loại khác như Cu2+, Fe2+, Zn2+..., trong khi amoni cạnh tranh với sự hấp thụ của các cation này.

·         Nitrat (Nitorat) có thể được cây hấp thụ dễ dàng và không cần trải qua quá trình chuyển đổi khác, như trường hợp của urê và amoni, trước khi hấp thụ.

·         Đất không bị Axit hóa (Đạm gốc Amon khi bón vào đất, phản ứng với nước (H2O) sẽ phóng thích ion (H+) sẽ làm đất ngày càng chua, giảm độ PH của đất). Vì vậy nếu đạm hoàn dạng Nitorat sẽ không làm chua đất.

·         Nitrat (Nitorat) hạn chế sự hấp thụ các yếu tố có hại, chẳng hạn như clo, với số lượng lớn.

·         Sự chuyển đổi Nitrat (Nitorat) thành axit amin xảy ra trong lá. Quá trình này được cung cấp bởi năng lượng mặt trời, làm cho nó trở thành một quá trình năng lượng thấp. Amoni phải được chuyển đổi thành các hợp chất hữu cơ nitơ trong rễ. Quá trình này được thúc đẩy bởi carbohydrate, do đó làm hỏng các quá trình khác trong đời sống thực vật, chẳng hạn như tăng trưởng và đậu quả.

Hiệu quả cây trồng hấp thụ Nitrat (Nitorat) tốt hơn so với hấp thụ amoni, đã được Legaz et al (1996) chứng minh rõ ràng. Các thí nghiệm cho thấy việc hấp thụ N (được gọi là đồng vị N-15) của cây có múi hiệu quả cao nhất tùy thuộc vào các loại phân bón. Thí nghiệm trên đất cát và đất mùn khi bón KNO3 và (NH4)2SO4 thì sự hấp thụ N là cao nhất trong đất cát (hiệu suất  60%) khi sử dụng KNO3 và 40% với (NH4)2SO4.

Nồng độ Nitrat (Nitorat)/amoni tối ưu trong đất

Trong đất, Knight et al (2000) nhận thấy rằng lượng ion NO3- cao trái ngược với dinh dưỡng NH4+ cao, nó có lợi cho năng suất khoai tây, chất lượng khao tây cũng tốt hơn. Nghiên cứu của họ được thực hiện tại Sandveld của Western Cape, Nam Phi, nơi pH đất thấp, thiếu đất sét và chất hữu cơ trong đất cản trở quá trình Nitrat (Nitorat) hóa. Ba mức độ amoni/Nitrat (Nitorat) khác nhau, cụ thể là 80:20, 50:50, 20:80, đối với ba mức độ N khác nhau được so sánh. Các kết quả tốt nhất về năng suất cho nhà sản xuất đã thu được khi 80% N ở dạng NO3- và 20% dưới dạng NH4+.

Khi tiếp tục thử nghiệm tỷ lệ áp dụng NO3-:NH4+, các kết luận tương tự đã được rút ra ở một số cây trồng khác về năng suất tăng (ryegrass của Ý - Castyham, 1963, trái cây có múi - Van der Merwe, 1953, cà chua - Kafkafi et al , 1971).

Mức độ tối ưu của Nitrat (Nitorat)/amoni trong thủy canh

Pha dung dịch thủy canh thì nên dùng đạm dạng amoni hay nitrat?: Trong nuôi trồng bằng phương pháp thủy canh, lượng NH4+ tiêu chuẩn được thêm vào dung dịch dinh dưỡng cho canh tác nằm trong khoảng từ 5 đến 10% tổng lượng N và sẽ hiếm khi vượt quá 15%. Ví dụ, đối với hoa hồng, chúng có xu hướng gần hơn 25% trong giai đoạn sinh dưỡng, trong khi đối với dưa hấu, chúng gần bằng 0% trong quá trình phát triển của quả.

Việc bổ sung đạm gốc Amon (NH4+) làm giảm độ pH trong môi trường gốc, do sự kích hoạt sự hấp thu cation (NH4+) và giảm sự hấp thụ anion (NO3-). Khi NH4+ được hấp thụ, cây trồng giải phóng H+ để duy trì tính trung lập điện, gây ra sự giảm pH trong môi trường rễ. Mức độ pH tối ưu trong phạm vi chất nền từ 5 đến 6 đối với hầu hết các loại cây trồng (Sonneveld và Voogt, 2009).

Một lưu ý khác là khi bổ sung của NH4+ thay vì NO3- trong giá thể có thể làm giảm sự hấp thu của các cation khác như K+ , Ca2+ và Mg2+, có thể được giải thích bởi sự cạnh tranh giữa các cation NH4+ và các cation này. Tỷ lệ của các hiệu ứng này phụ thuộc vào các yếu tố khác nhau như nuôi cấy, điều kiện tăng trưởng và điều chỉnh cân bằng ion của các chất dinh dưỡng. Do đó, sử dụng NH4+ ở nồng độ phù hợp được khuyến nghị cho những cây trồng nhạy cảm với sự thiếu hụt Ca. Điều này đặc biệt đúng khi những cây trồng này được trồng trong điều kiện khí hậu làm giảm sự vận chuyển Ca đến trái cây. Ví dụ điển hình là trồng cây cà chua và cây ớt trong môi trường khô, nóng. Cả hai loại cây trồng đều dễ bị thối hoa, do thiếu Ca trong quả, đặc biệt không điều  kiện khí hậu khô, nóng. Trong điều kiện như vậy, bất kỳ sự giảm hấp thu Ca nào đều trở nên nguy hiểm và do đó việc sử dụng NH4+ cũng trở nên rủi ro (Sonneveld và Voogt, 2009).

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây

  Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây Tên khoa học:  Globodera rostochiensis Wollenweber, 1923,G.pallida Stone, 1973           Là một trong những loài tuyến trùng hại khoai tây. Nếu cây bị nhiễm làm cho cây phát triển còi cọc, lá héo có thể làm chết cây. Nhiễm ở mức nghiêm trọng dẫn đến thiệt hại năng suất củ lên đến 80%. 1. Nguồn gốc           Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây là do tuyến trung G.pallida gây nên. Loại tuyến trùng này là loài phi bản địa có nguồn gốc từ Châu Âu. Lần đầu tiên phát hiện ở miền đông Idaho trong tháng 4 năm 2006. Cho đến nay, nó được phát hiện thấy và bị hạn chế tại 17 cánh đồng bị nhiễm khuẩn đại diện cho tổng số 1.916 mẫu Anh ở Bingham và Bonneville của Idaho. Mặc dù G.pallida bị giới hạn phân bố địa lý, sự hiện diện của chúng trong đất trồng tại mỹ đã có tác động sâu rộng làm đóng cửa, hạn chế thị trường xuất khẩu, giảm giá trị đất nông nghiệp và các khó khăn kinh tế khác. 2. Triệu chứng           Triệu chứng thể hiện lá biến vàng, l

Bệnh lùn sọc đen hại lúa, ngô

  Bệnh lùn sọc đen hại lúa, ngô Tên khoa học:  SRBSDV (Southern Rice Black-Streaked Dwarf Virus)            Để hạn chế tối đa ảnh hưởng,giảm mức thiệt hại do bệnh gây ra, người dân cần thiết áp dụng các biện pháp đồng bộ phòng trừ kịp thời ngay từ đầu vụ mới có thể đảm bảo năng suất lúa, ngô. 1 Triệu chứng gây hại 1.1 Gây hại trên cây lúa - Khi bắt đầu nhiễm bệnh rễ cây vẫn phát triển bình thường, về sau rễ kém phát triển dần, ngắn và sau đó chết. - Triệu chứng điển hình để nhận biết được xác định ít nhất 2 tuần qua môi giới truyền bệnh là rầy mang virus chích hút vào cây lúa khỏe. - Cây bị bệnh thường thấp lun, lá xanh đập hơn bình thường. Lá lúa bị xoăn ở đầu lá hoặc toàn bộ lá. Gân lá ở mặt sau bị sưng lên. Khi cây còn nhỏ, gân chính trên bẹ lá cũng bị phồng sưng. - Nếu cây bị nhiễm ở giai đoạn làm đòng và khi lúa có lóng, cây nhiễm bệnh thường nảy chồi trên đối thân và mọc nhiều rễ bất định. Trên bẹ và lóng thân mọc nhiều u sáp và bọc đen. Ở giai đoạn lúa trỗ, triệu c

Cây dược liệu Dây bông xanh

  Cây Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora (Roxb. ex Rottl.) Roxb Dược liệu Dây bông xanh có vị ngọt, tính bình; có tác dụng tiêu sưng, tiêu viêm, làm lành vết thương. Vỏ rễ dùng chữa đòn ngã tổn thương, đụng giập. Lá sắc uống dùng trị đau dạ dày. Dây và lá dùng đắp ngoài trị rắn cắn, đinh nhọt.   Hình ảnh cây Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora (Roxb. ex Rottl.) Roxb., thuộc họ Dây bông xanh - Thunbergiaceae. Bộ phận dùng:  Vỏ rễ, dây và lá -  Cortex Radicis, Caulis et Folium Thunbergiae . Nơi sống và thu hái:  Cây của vùng Đông Dương, mọc hoang ở đồng bằng và vùng núi nhiều nơi khắp nước ta. Cũng được trồng làm cây cảnh. Thu hái rễ vào mùa hè thu, tách lấy vỏ và bỏ lõi gỗ. Thu hái dây và lá quanh năm, dùng tươi hay phơi khô trong râm để dùng dần. Tính vị, tác dụng:  Dây bông xanh có vị ngọt, tính bình; có tác dụng tiêu sưng, tiêu viêm, làm lành vết thương. Công dụng, chỉ định và phối hợp:  Vỏ rễ dùng chữa đòn n