Chuyển đến nội dung chính

Hoa sen trong ẩm thực

  Hoa sen được sử dụng rộng rãi trong ẩm thực của nhiều quốc gia châu Á. Các phần khác nhau của hoa sen, bao gồm hạt sen, cánh sen và cuống sen, đều được sử dụng để tạo ra các món ăn ngon và độc đáo. Dưới đây là một số ví dụ về cách hoa sen được sử dụng trong ẩm thực: Chè sen: Chè sen là một món tráng miệng phổ biến trong nhiều nền ẩm thực châu Á. Nó được làm từ hạt sen và nước cốt dừa, thường được thêm vào đường, sữa đặc hoặc các thành phần khác để tạo ra một món chè ngọt mát. Salad sen: Hạt sen cũng có thể được sử dụng để làm một món salad tươi ngon. Hạt sen thường được chế biến tươi hoặc sấy khô và được kết hợp với các loại rau, rau sống, hạt, gia vị và nước sốt để tạo ra một món salad phong cách độc đáo. Món chiên: Hạt sen cũng có thể được chiên và làm món ăn giòn rụm. Chúng có thể được chiên với một lớp bột hoặc chiên chung với các thành phần khác như tôm, thịt hoặc rau củ. Món bánh: Hạt sen cũng thường được sử dụng làm thành phần trong các loại bánh như bánh sen, bánh trôi, bánh

Kỹ thuật làm đất gieo mạ cho vụ hè thu

 Kỹ thuật làm đất gieo mạ cho vụ hè thu


Để có một vụ lúa hè thu đạt năng suất trong điều kiện nắng nóng và hạn hán gay gắt đầu vụ, mưa, lũ lụt, bảo khả năng xảy ra cuối vụ là điều mà cá bà con nông dân lo lắng. Trong đó việc chuẩn bị giống, xử lý hạt giống và chuẩn bị nương mạ là rất cần thiết cho vụ hè thu đạt năng xuất cao.

1. Chuẩn bị giống cho vụ hè thu

- Vụ hè thu kéo dài chỉ trong vòng 3 tháng từ 20-30/5 thu hoạch 1-10/9, nênbà con cần chọn giống ngắn ngày cho vụ mùa này.

- Khi chọn mua giống nên chọn những nơi bán giống uy tín, đảm bảo chất lượng, sạch bệnh, tỉ lệ nảy mầm phải cao hơn 80%. Số lượng gieo mạ cấy đủ cho một ha thông thường từ 18-25kg/ha, tùy vào phương pháp gieo mạ của người dân mà tính lượng giống cho ruộng.

2. Ngâm ủ lúa giống

- Tùy theo phương thức làm mà mạ nhu cầu và thời gian ủ giống khác nhau, thông thường vào vụ hè thời tiết nắng nóng cao nên thời gian ủ và ngâm giống ngắn hơn so với vụ đông xuân.

- Khi ngâm ủ cần lưu ý kỹ thuật: Loại bỏ những hạt lửng hạt lép trước khi ngâm giống. Cho hạt giống vào trong một bao bì có thể thoát nước hoặc vào xô chậu to để ngâm hạt giống. Ngâm giống trong vòng 24 giờ tùy vào tình trạng giống và thời tiết để tùy chỉnh thời gian ngâm giống cho phù hợp.

- Sau khi ngâm hạt giống vớt ra và làm sạch hạt giống bằng cách đãi sạch giống dưới nước sạch 2-3 lần để hết nước chua thì thôi, vớt lên để dáo nước rồi mang đi ủ.

- Chuẩn bị vật liệu ủ giống: Bao phải được giủ sạch, nhúng bao vào nước cho ướt sau đó đổ giống vào. Ghi nhản và ngày giờ bắt đầu ủ giống
- Cho hạt nẩy mầm: Ủ trong bao và đặt trong điều kiện nhiệt độ thích hợp (nơi ấm 30oC), giữ cho đống ủ luôn ẩm và không quá nóng trong suốt thời gian ủ.
- Thời gian ủ thường 36-48 giờ hoặc dài hay ngắn hơn tùy theo điều kiện môi trường đóng ủ (nóng-lạnh và khô-ẩm), theo dõi đống ủ để thêm nước khi thiếu ẩm. Khi hạt giống nứt mầm và rể nhú gai dứa là vừa để gieo.

3. Chuẩn bị nương mạ

Cây mạ khoẻ là yếu tố quan trọng quyết định thời gian phục hồi, phát triển cây lúa và cho năng suất lúa, việc chuẩn bị luống mạ phải được quan tâm đúng mức. Tùy theo điều kiện từng nơi mà các biện pháp làm mạ có khác nhau, các yêu cầu kỹ thuật cho mỗi loại nương mạ như sau:

3.1. Chuẩn bị mạ trên ruộng

- Làm nương mạ trên ruộng ướt (mạ ướt) là rất phổ biến ở các vùng trồng lúa. Ở Miền Nam, những yêu cầu làm đất và chăm sóc cho cây mạ khoẻ thường được áp dụng như sau:

- Ðất làm nền gieo mạ thường được chọn nơi thuận lợi cho việc chăm sóc, tưới tiêu và khu đất tốt và đồng đều.

- Ðất được cày - xới hay cuốc, bừa cho đất mềm nhão và san bằng, đánh luống (rộng 1-1,5 m).

- Hạt giống được ngâm-ủ nẩy mầm (nứt nanh) và được gieo - rải đều trên mặt luống. Mật độ gieo tối đa 1kg giống/ 20m2 (cho cấp giống siêu nguyên chủng); và 1kg giống/ 15m2 (cho cấp giống nguyên chủng và xác nhận). Gieo xong, vào thời tiết vụ hè thu nắng nóng cần che tấm lưới đen lại tránh ánh nắng trực tiếp chiếu xuống luống mạ làm mầm mạ bị cháy.

- Chăm sóc đến khi nhổ mạ cấy. Thường trong quá trình chăm sóc, nên tưới hoặc bón phân đạm (urea) 7-10 ngày sau khi gieo, liều lượng khoảng 20gr/m2, hay dùng phân 5kg Urea + 5kg DAP bón cho 1000 m2 mạ. Có thể bón lần 2 tùy theo độ phì của đất và mùa vụ. Cung cấp nước cho mạ sau khi gieo 3 ngày và giữ mức nước ngập thích hợp từng tuổi mạ (khoảng 2-3cm).

- Tuổi mạ lúc 12 ngày, cây mạ có khỏang 1-2 chồi ngạnh trê và nhổ cấy rất thích hợp.

3.2. Chuẩn bị làm đất gieo mạ sân

- Ðây là loại nương mạ được làm ngay trên sân nhà (sân đất hay sân gạch). Yêu cầu kỹ thuật cần để thực hiện như sau:

- Dùng bạc nylon hay lá chuối trãi lên mặt đất, dùng cây gổ hay gạch hoặc đấp đất xung quanh phần lô mạ.

- Rải lên bao nylon lớp đất nhuyển + tro trấu + phân hữu cơ hoai, và san cho bằng mặt, độ dầy lớp đất khảng 1-2cm.

- Gieo hạt giống khô (hạt giống nên lựa lấy những hạt no đủ và sạch bệnh). Mật độ gieo khá dầy 2-4m2/kg hạt giống (1 kg hạt giống sẽ cấy đủ cho 1000m2 đất ruộng).

- Chăm sóc: gieo xong dùng lưới nylon đen (lưới phơi lúa) phủ lên mặt luống mạ. Dùng thùng vòi sen tưới đủ ẩm, ngày 2-3 lần, tuỳ theo mùa mưa hay nắng. Phân urea cũng được tưới 20gr/m2 lúc 5-7 ngày sau khi nẩy mầm và có thể tưới phân thêm tuỳ theo sinh trưởng cây mạ.

- Cấy mạ lúc 12 ngày tuổi. Nhổ mạ-rửa đất và khi cấy tách từng cây mạ nhẹ tay tránh bị gảy mạ (vì rể mạ đan lẩn nhau và cây mạ nhỏ yếu chưa có chồi ngạnh trê).

  

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây

  Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây Tên khoa học:  Globodera rostochiensis Wollenweber, 1923,G.pallida Stone, 1973           Là một trong những loài tuyến trùng hại khoai tây. Nếu cây bị nhiễm làm cho cây phát triển còi cọc, lá héo có thể làm chết cây. Nhiễm ở mức nghiêm trọng dẫn đến thiệt hại năng suất củ lên đến 80%. 1. Nguồn gốc           Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây là do tuyến trung G.pallida gây nên. Loại tuyến trùng này là loài phi bản địa có nguồn gốc từ Châu Âu. Lần đầu tiên phát hiện ở miền đông Idaho trong tháng 4 năm 2006. Cho đến nay, nó được phát hiện thấy và bị hạn chế tại 17 cánh đồng bị nhiễm khuẩn đại diện cho tổng số 1.916 mẫu Anh ở Bingham và Bonneville của Idaho. Mặc dù G.pallida bị giới hạn phân bố địa lý, sự hiện diện của chúng trong đất trồng tại mỹ đã có tác động sâu rộng làm đóng cửa, hạn chế thị trường xuất khẩu, giảm giá trị đất nông nghiệp và các khó khăn kinh tế khác. 2. Triệu chứng           Triệu chứng thể hiện lá biến vàng, l

Bệnh lùn sọc đen hại lúa, ngô

  Bệnh lùn sọc đen hại lúa, ngô Tên khoa học:  SRBSDV (Southern Rice Black-Streaked Dwarf Virus)            Để hạn chế tối đa ảnh hưởng,giảm mức thiệt hại do bệnh gây ra, người dân cần thiết áp dụng các biện pháp đồng bộ phòng trừ kịp thời ngay từ đầu vụ mới có thể đảm bảo năng suất lúa, ngô. 1 Triệu chứng gây hại 1.1 Gây hại trên cây lúa - Khi bắt đầu nhiễm bệnh rễ cây vẫn phát triển bình thường, về sau rễ kém phát triển dần, ngắn và sau đó chết. - Triệu chứng điển hình để nhận biết được xác định ít nhất 2 tuần qua môi giới truyền bệnh là rầy mang virus chích hút vào cây lúa khỏe. - Cây bị bệnh thường thấp lun, lá xanh đập hơn bình thường. Lá lúa bị xoăn ở đầu lá hoặc toàn bộ lá. Gân lá ở mặt sau bị sưng lên. Khi cây còn nhỏ, gân chính trên bẹ lá cũng bị phồng sưng. - Nếu cây bị nhiễm ở giai đoạn làm đòng và khi lúa có lóng, cây nhiễm bệnh thường nảy chồi trên đối thân và mọc nhiều rễ bất định. Trên bẹ và lóng thân mọc nhiều u sáp và bọc đen. Ở giai đoạn lúa trỗ, triệu c

Cây dược liệu Dây bông xanh

  Cây Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora (Roxb. ex Rottl.) Roxb Dược liệu Dây bông xanh có vị ngọt, tính bình; có tác dụng tiêu sưng, tiêu viêm, làm lành vết thương. Vỏ rễ dùng chữa đòn ngã tổn thương, đụng giập. Lá sắc uống dùng trị đau dạ dày. Dây và lá dùng đắp ngoài trị rắn cắn, đinh nhọt.   Hình ảnh cây Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora (Roxb. ex Rottl.) Roxb., thuộc họ Dây bông xanh - Thunbergiaceae. Bộ phận dùng:  Vỏ rễ, dây và lá -  Cortex Radicis, Caulis et Folium Thunbergiae . Nơi sống và thu hái:  Cây của vùng Đông Dương, mọc hoang ở đồng bằng và vùng núi nhiều nơi khắp nước ta. Cũng được trồng làm cây cảnh. Thu hái rễ vào mùa hè thu, tách lấy vỏ và bỏ lõi gỗ. Thu hái dây và lá quanh năm, dùng tươi hay phơi khô trong râm để dùng dần. Tính vị, tác dụng:  Dây bông xanh có vị ngọt, tính bình; có tác dụng tiêu sưng, tiêu viêm, làm lành vết thương. Công dụng, chỉ định và phối hợp:  Vỏ rễ dùng chữa đòn n