Cây Hành Tây
1. Giá trị dinh dưỡng và ý nghĩa kinh tế
- Hành tây là cây trồng lâu đời và chiếm vị trí quan trọng trong sản xuất rau trên thế giới. Không có nước nào, dân tộc nào lại không đưa hành tây vào khẩu phần ăn thường nhật. Người La Mã nhất thiết phải dùng hành tây cho khẩu phần ăn của quân đội.
- Là cây trồng được sử dụng rộng rãi. Người
ta dùng hành tây để sào, nấu súp, luộc, nướng, làm kem, trột sa lát… Lượng dùng
hàng ngày không nhiều, nhưng cho cả năm thì số lượng đáng kể. Ví dụ Liên Xô
những năm 1980 bình quân đầu người ở một số nước Cộng hòa từ 14-17 kg/năm. Hành
tây là loại rau có giá trị kinh tế cao. Trong hành tây có chứa: chất khô: 12%,
đường tổng số 6,5%, protein thô – 1,8%, vitamin C-8,9mg%.
- Diện tích và năng suất hành tây trên thế
giới không ngừng tăng lên theo thời gian. Diện tích trồng hành tây ở Châu Á là
lớn nhất. Các nước dẫn đầu về diện tích là Mỹ, về sản lượng là Trung Quốc và về
năng suất là Liên Xô. Hành tây là mặt hàng xuất khẩu quan trọng của nhiều nước
trên thế giới. Ở nước ta hành tây là cây vụ đông quan trọng của nhiều vùng,
trồng hành tây mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn các cây trồng khác như lúa,
dưa, ngô…
2. Công dụng của hành tây trong y học
Hành tây không những được sử dụng rộng rãi
làm thực phẩm mà còn làm vị thuốc quí. Trong hành tây chứa nhiều chất diệt
khuẩn. Đặc biết là chất phitoxit. Người Ai Cập đã tỏ sự quí trọng cây hành tây
trên đài kỷ niệm. Hành tây chữa được nhiều loại bệnh, kích thích hoạt động của
tim, thận và được tiêu hóa. Người ta dùng hành tây để chữa các bệnh đau mắt,
viêm tai, viêm khớp. Nước hành với mật ong chữa ho, nước hành tươi chữa được
bệnh đường ruột. Hành tây có tác dụng chữa trị bệnh huyết áp và xơ cứng động
mạch.
3. Nguồn gốc
- Nguồn gốc của hành tây đã được ghi chép
lại trong lịch sử văn học và điêu khắc nhưng chưa tìm thấy loại dại. Hành tây
trồng trọt ngày nay là kết quả của quá trình lao động sáng tạo của loài người.
Nó xuất hiện ở nước cổ Ba Tư, người ta cho răng Ba Tư có thể là trung tâm nguồn
gốc hành tây. Người Hy Lạp và người Ý đã viết về cây hành tây. Hành tây đến
Châu Âu vào thời kỳ trung cổ, người Tây Ban Nha đã mang hành tây đến Bắc Mỹ.
- Trong chiến tranh thế giới, hành tây được
coi trọng, tướng Grant đã gửi một bức điện báo cho Bộ trưởng Bộ Chiến tranh vào
mùa hè 1864 rằng: “ Tôi không di chuyển quân nếu không có hành tây”.
- Về nguồn gốc của hành tây vẫn còn một vài
điều gì đó huyền bí. Linnaeus, Don và Regel là những người viết chuyên khảo về
cây hành tây cũng không xác định được nguồn gốc của nó một cách chính xác. Hầu
hết các nhà thực vật học đều do dự về A.cepa như một cây hoang dại.
- Trong những giống trồng trọt của A.cepa
có thể chia ra thành 3 nhóm, những nhóm ấy chỉ giới hạn trong biến chungr thực
vật:
+ Nhóm hành tây thông thường: Var.cepa
+ Hầu hết những giống hành tây quan trọng
đều thuộc nhóm này. Chúng có sự khác nhau về hình dạng, màu sắc thân củ, phản
ứng với ánh sáng, nhiệt độ.
3. Đặc điểm thực vật học
3.1 Hệ rễ
- Thuộc hệ rễ chùm, phát triển
kém, rễ tập trung ở lớp đất mặt, khả năng chống chịu khô hạn kém. Rễ bắt đầu
sinh trưởng ở nhiệt độ 2-3oC. Hệ rễ hành tây
có nhiều sợi dài, phân nhánh yếu, chúng được bao phủ một số lượng lớn lông hút.
Loại rễ này rất dễ khô héo khi bị nhổ lên. Vì vậy phải gieo trồng ở đất mầu mỡ,
tới xốp và đủ độ ẩm.
3.2 Thân và
lá
- Thân thật của hành rất ngắn, đã thoái hóa, chúng là dạng đế giò nằm sát ngay dưới thân giả (thân củ). Trên thân thật có mầm sinh dưỡng và sinh thực, những mầm này được che phủ bởi những bẹ lá dầy, mọng nước (cơ quan sử dụng).
- Thân củ: là bộ phận sử dụng được cấu tạo
bởi nhiều bẹ lá.
- Lá thật: đầu tiên của hành là một
lá mầm, sau khi nảy mầm 10-15 ngày tùy theo điều kiện thời tiết. Lá hành tây
hình ống, tròn, bằng phẳng, trên lá được phủ một lớp sáp. Thời kỳ đầu lá hành
sinh trưởng rất chậm, sau khi nảy mầm chỉ sinh trưởng được một vài cm, ở thời
kỳ này xới xáo, trừ cỏ dại là công việc hết sức quan trọng. Tuổi thọ của lá phụ
thuộc vào sự sinh trưởng, lá sẽ chết dần, cũng là quá trình tạo củ.
- Bẹ lá là cơ quan sử dụng chủ yếu của hành
tây, củ hành được tạo thành bởi số bẹ lá. Số bẹ lá thay đổi phụ thuộc vào giống
và kỹ thuật trồng trọt. Bẹ lá sắp xếp trên thân theo hình xoáy ốc, khoảng cách
giữa các bẹ lá còng nhỏ thì củ hành càng chặt, do đó tăng khả năng bảo quản và
vận chuyển, năng suất sẽ cao. Vì khối lượng củ phụ thuộc vào số lượng bẹ lá, độ
lớn và bề dầy mỗi bẹ lá.
3.3 Hoa và hạt
Thuộc hoa đầu trạng, hoa có 6 lá đài, 6 nhị
và nhụy. Hoa thụ phấn chéo (phấn hoa thương chin trước). Vì vậy phải thụ phấn
với hoa bên cạnh hoặc hoa trên cây khác. Thụ phấn chủ yếu nhờ côn trùng, cũng
có thể nhờ gió. Hoa có mầu trắng xám, đôi khi phót tím hoặc mầu hồng. Vòi nhụy
rất bé, bầu thượng có 3 ngăn, nếu được thụ phấn đầy đủ thì có 6 hạt.
+ Cành hoa dài 60-100 mm, hình ống, có màu
xanh, một chùm hoa có từ 250-600 hoa, hoa phân bố theo 3 tầng. Vì vậy thời gian
và độ chin giữa các tầng khác nhau, thời gian ra hoa kéo dài hàng tháng, chùm
hoa có dạng hình tán.
- Hạt: có mầu đen, hình đa giác, vỏ cứng, sù sì, dầy, 1 gam hạt có khoảng 250-400 hạt.
4. Yêu cầu điều kiện ngoại cảnh
4.1 Nhiệt độ
- Hành tây là cây ưa thích khí
hậu lạnh, khả năng thích nghi với nhiệt độ rất rộng, vừa có thể chịu rét, lại
vừa có khả năng chịu nhiệt độ cao do chúng xuất xứ ở những vùng có nhiệt độ
ngày đêm biến đổi lớn. Nhiệt độ cho hành tây sinh trưởng phát triển 16-20oC, yêu cầu nhiệt độ thay đổi theo từng thời kỳ của
cây.
- Hạt hành tây bắt đầu nảy mầm
ở 2-3oC với độ ẩm đất 80-90%, hạt nảy mầm nhanh ở nhiệt độ
20-22oC. Nhiệt độ thích hợp cho cây sinh trưởng (mọc từ
hạt) là 22-25oC, nhiệt độ cho than củ sinh
trưởng tốt là 18oC, khi nhiệt độ tăng cao 30-32oC, cây sinh trưởng rất nhanh, nhưng sau đó giảm sút,
khả năng chịu nhiệt độ thấp của hành khá tốt, cây trưởng thành chịu rét tốt hơn
cây nhỏ, có thể chịu -7oC.
4.2 Ánh sáng
- Là cây ưa sáng, hầu hết là cây ngày dài,
sự thay đổi phụ thuộc vào giống, có thể phân chia thành 2 nhóm:
+ Giống ngày ngắn, hình thành củ trong điều
kiện thời gian chiếu sáng ngắn 10-12 giờ, không hình thành củ trong diều kiện
ngay dài. Những giống thuộc nhóm này là những giống chin sớm.
+ Giống ngày dài, hình thành củ trong điều
kiện chiếu sáng dài trên 15 giờ/ngày, không hình thành củ ở 10-12 giờ/ngày.
Nhìn chung thời gian chiếu sáng từ 12-16 giờ/ngày các quá trình của cây được
tăng cường.
- Thời gian chiếu sáng ngắn 8 giờ/ngày làm
giảm khả năng tổng hợp vitamin C, tăng cường sự sinh trưởng của lá, kéo dài
thời gian sinh trưởng, không tạo củ.
- Ánh sáng ngắn, nhiệt độ cao, diện tích dinh dưỡng lớn sẽ kích thích sự ra lá trên cây, số lá tăng, cây có dạng bụi.
4.3 Nước
Khi nảy mầm hành cần nhiều
nước do hạt có nhiều góc cạnh, vỏ dày, nước xâm nhập vào hạt khó khăn. Rễ hành
yếu nên không chịu khô hạn. Vì vậy thời kỳ nảy mầm đến khi cây có 4-5 lá thật
yêu cầu độ ẩm cao, đất phải ẩm thương xuyên. Khi thếu ẩm lá ngững sinh trưởng,
củ nhỏ. Ở nơi có bức xạ lớn, bốc hơi nước nhiều, lượng mưa không đủ thì tưới
nước là biện pháp kỹ thuật quan trọng tăng năng suất của hành. Theo Xoboleba
O.M thì sự tiêu phí nước cho 1 tấn hành hô từ 50-70 m3. Độ ẩm ở các thời kỳ sinh trưởng từ 70-80%, ddooj
aamr khoong khis thaaps 45-55%, ddooj aamr khoong khi cao cây bị bệnh hại. Ở
những vùng khô hạn độ ẩm khó khống chế, độ ẩm thấp ảnh hưởng đáng kể đến hình
dạng củ và thời gian thu hoạch do hệ rễ bị khô héo và chết. Nước quá dư thùa sẽ
làm cho cây hành không chin già và khô được do cổ hành to, sù.
4.4 Đất đai
- Đất tốt nhất cho hành tây sinh trưởng là
đất nhẹ giầu chất hữu cơ, trồng hành tây trên đất cát pha đất thịt nhiều mùn
thường cho năng suất cao. Đất mầu mỡ sẽ cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho cây
hành sinh trưởng, phát triển. Trên ddaaats cát pha cũng cung cấp đầy đủ chất
dinh dưỡng, nhưng hành chin sớm hơn so với đất thịt và năng suất sẽ thấp hơn.
Hành tây non rất dễ bị gãy, đất vườn ươm phải nhỏ, không có sỏi đá. Đất gieo
hạt phải tiêu nước tốt và khô ráo.
- Hành tây tuy có thể chịu được đất hơi
chua, nhưng độ pH từ 6,0-6,8 biểu hiện tốt với điều kiện cung cấp đầy đủ chất
dinh dưỡng. Nếu độ pH thấp dưới 6 thì cây sẽ mẫm cảm với đất chua, dẫn đến năng
suất giảm, chất lượng giảm. Cây hành tây cũng có thể sinh trưởng ở độ pH
7,5-7,8 trên đất đầy đủ các chất dinh dưỡng chủ yếu.
5. Một số giống hành tây đang trồng phổ
biến
5.1 Giống
hành F1 Granex của Nhật
Giống này được trồng phổ biến ở những vùng
trồng hành. Giống có thời gian sinh trưởng 130-140 ngày. Thân củ hình tròn dẹt,
được kính củ 8,5 cm, khối lượng củ trung bình 265,5 g, năng suất trung bình đạt
20-25 tấn/ha. Chất lượng tốt, ăn ngon, ngọt. Khả năng chống chịu với bệnh sương
mai ở mức trung bình.
5.2 Giống
hành F1 Grano của Nhật
Giống có thời gian sinh trưởng 130-135
ngày. Thân củ có dạng hình cầu, khoảng cách giữa các bẹ lá lớn, bẹ lá daầy,
đường kính củ từ 6-7 cm , khổi lượng củ trung bình 150-200 g, Năng suất trung
bình 15-20 tấn/ha. Chất lượng tốt, ít mùi hăng, ăn ngọt. Khả năng chống chịu
với bệnh hại ở mức trung bình.
Hiện nay hành tây không ra hoa ở đồng bằng,
vì vậy hạt giống phải mua từ nước ngoài. Đây là một khó khăn cho việc mở rộng
diện tích trồng hành ở nước ta. Gân đây một số vùng thuộc tỉnh phía Bắc nước ta
đã dùng hạt giống hành tay của Trung Quốc. Trên thị trường đã xuất hiện hành thương
phẩm của Trung Quốc.
Nhận xét
Đăng nhận xét