Chuyển đến nội dung chính

Chính sách quyền riêng tư,

Cây dưa lê (dưa thơm)

 Cây dưa lê (dưa thơm)


1. Đặc điểm thực vật học

Rễ: Bộ rễ dưa lê có cấu trúc giống như bộ rễ của dưa hấu nhưng yếu hơn, gồm rễ chính dài 0,6-1,0m và có khoảng 9-12 rễ phụ ăn lan rộng trên mặt đất. Vì thế dưa lê chịu hạn tốt nhưng yếu hơn dưa hấu và chịu ấm khá (Mai Thị Phương Anh, 1996; Phạm Hồng Cúc và cs., 1999). Rễ mọc trải rộng 80-120cm ở tầng đất mặt 15-20cm.

Thân: Thân dưa lê thuộc dạng thân thảo, mọc chậm giai đoạn đầu (3 tuần sau khi gieo). Thân trong rỗng xốp, bên ngoài thân có nhiều lông tơ, đốt trên thân mang nhánh, lóng thân phát triển rất nhanh, chiều dài thân chính từ 2-8m (Whitaker et al., 1962). Thân dưa lê có nhiều mắt, mỗi mắt có một lá, một chồi nách và tua cuốn, nếu có điều kiện thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển số lượng cành có thể đến 28 cành/cây (Mai Thị Phương Anh, 1996; Davis et al., 1965).

Lá: Dưa lê thuộc loài trong họ bầu bí nên có 2 lá mầm, hai lá mầm đầu tiên mọc đối xứng nhau qua đỉnh sinh trưởng, hình trứng. Dưa lê có 2 lá mầm nhỏ, đây cũng là chỉ tiêu đánh giá tình hình sinh trưởng của cây. Dưa lê có trung bình tổng số lá trên thân chính là 45,8 lá và tuổi thọ trung bình của lá mầm là 20 ngày, lá thật là 26 ngày (Tạ Thu Cúc, 2005). Lá thật dạng lá đơn, mọc xen, cuống dài, phiến và cuống lá đều có lông tơ. Lá có hình xoan, dài 6-15cm, dạng lá hơi lõm ở giữa chia 3 đến 7 thùy cạn và màu sắc từ xanh nhạt đến xanh đậm.

Hoa: Có các dạng hoa đực, hoa cái, hoa lưỡng tính trên cùng một cây. 
Tùy giống và điều kiện trồng mà có đủ hay chỉ có một hoặc hai dạng. Hoa mọc đơn độc ở nách. Hoa đực xuất hiện trước, ở nách lá có thể một hay nhiều hoa đực, thụ phấn nhờ côn trùng. Hoa cái ở vị trí lá thứ bảy trở đi dễ đậu trái và cho trái tốt (Whitaker et al., 1962 và Mai Thị Phương Anh, 1996). Hoa mọc thành chùm và có cuống ngắn, mọc từ nách của thân chính và các nhánh (Knott, 1967). Hoa nở từ buổi sáng và theo thứ tự từ hoa gốc đến ngọn. Hoa có năm cánh màu vàng, hoa cái có bầu noãn nằm ở hạ cuống khi hoa nở hướng lên và quả hướng xuống, hoa cái xuất hiện sau hoa đực khoảng một tuần.

Quả: Rất đa dạng trong kích cỡ và hình dạng, hình cầu hoặc hình thuôn, bằng phẳng hoặc có nếp nhăn, vỏ quả không có lông, bằng phẳng tới xù xì và có lưới, màu xanh xám đến vàng sẫm, vàng nâu hoặc xanh, vàng tươi, hồng hoặc xanh, nhiều hạt. Kích thước quả từ 200g đến vài kg, thịt quả cũng khác giữa các giống có thể là màu trắng, xanh, vàng, hồng hoặc cam, còn khi chín có giống có mùi thơm (Nonnecke, 1989; Foster et al., 1995). 

Hạt: Đa số hạt được sinh ra từ đế hoa có nhiều ngăn, trong một chất nhày, hạt dẹt, màu nâu đen, đỏ nâu, trắng hoặc màu kem, bằng phẳng, dài 5-15cm.

2. Các giai đoạn sinh trưởng của dưa lê (dưa thơm)

- Thời kì cây con : Từ khi gieo đến khoảng 6-7 ngày. Hạt chứa nhiều
chất dinh dưỡng nên thuận lợi trong quá trình mọc. Yếu tố quan trọng trong thời
gian nảy mầm là nhiệt độ. Nhiệt độ thích hợp là 25 - 300C (Iselin et al., 1974; Phạm Hồng Cúc và cs., 1999; Tạ Thu Cúc, 2005). Hạt nảy mầm tốt nhất khi nhiệt độ đất tối thiểu là khoảng 160C. Trong thời kỳ này độ ẩm của đất cũng rất quan trọng. Ở giai đoạn này hai lá mầm sinh trưởng rất nhanh, có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của cây, đặc biệt là thời kỳ cây con (Tạ Thu Cúc, 2005).

- Thời kỳ tăng trưởng: Từ khi cây có 1 lá thật đến lúc bắt đầu ra hoa đực 
(khoảng 18 ngày sau khi gieo), lúc này cây có khoảng 6 - 7 lá. Đặc điểm của thời kì này là thân lá sinh trưởng rất chậm, lá nhỏ, lóng cây nhỏ và ngắn, thân ở trạng thái đứng, thân thẳng, chưa có khả năng phân cành. Tốc độ ra rễ chậm nhưng mạnh hơn thân lá (Tạ Thu Cúc, 2005).

- Thời kỳ ra hoa kết quả: Sau khi cây có 6 đến 7 lá thật đến khi đậu quả 
(30 - 33 ngày sau khi gieo) và có khoảng 18 lá trên thân chính. Ở thời kỳ này thân lá sinh trưởng mạnh, thân chuyển sang dạng bò, các nhánh cấp 1 cấp 2 và tua cuốn được hình thành liên tục, cây nhanh chóng chiếm diện tích dinh dưỡng (Tạ Thu Cúc, 2005).

- Thời kỳ phát triển quả: Từ khi đậu quả đến thu hoạch. Hoa sau khi thụ 
phấn thì phát triển thành quả rất nhanh, nhất là 20 ngày đầu, sau đó chậm lại dần 
đến khi quả bắt đầu chín. Thời kì này quyết định đến năng suất, lúc này dưa cần 
nhiều nước và chất dinh dưỡng để tập trung nuôi quả (Trần Khắc Thi, 1996). 
Khoảng 7 - 10 ngày trước khi thu hoạch, giảm tưới nước 50 % vì đây là thời gian giúp tăng mùi vị và chất lượng quả bằng cách gia tăng hàm lượng chất rắn hòa tan của quả dưa lê. Khoảng 1 tuần trước khi thu hoạch vỏ quả chuyển từ xanh sang hơi vàng (Drost and Hefelbower, 2010).

3.  Yêu cầu ngoại cảnh của dưa lê (dưa thơm)

- Nhiệt độ: Dưa lê là cây trồng nhiệt đới nên thích hợp nhiệt độ cao. Nhiệt độ thích hợp cho cây sinh trưởng và phát triển 25 - 300C. Nhiệt độ thấp gây nguy hiểm và có thể làm chết héo cây con, do rễ cây không hấp thu được nước từ đất và khi mặt trời lên nước bốc hơi từ lá nhanh hơn rễ hút nước vì thế dẫn đến héo nhanh và chết. Nhưng dưa lê rất yếu, chịu nhiệt độ thấp nhất là giai đoạn ra hoa hình thành quả, hiện tượng rụng nụ, phấn không tung và thụ phấn không thực hiện được khi nhiệt độ xuống dưới 150C. Vào buổi sáng và nhiệt độ thích hợp để cây ra hoa và tạo quả 20 - 220C vào buổi sáng và 25 - 270C vào buổi trưa. Sự sinh trưởng sẽ bị hạn chế khi nhiệt độ thấp hơn 150C và khi cao hơn 350C.

- Ánh sáng: Cây dưa lê là cây ưa sáng. Vì vậy cây cần nhiều ánh sáng ngay từ khi xuất hiện lá mầm đầu tiên cho đến khi kết thúc sinh trưởng, nắng nhiều và nhiệt độ cao là hai yếu tố làm tăng chất lượng dưa. Cây không đủ ánh sáng hay do trồng với mật độ dày, bị che khuất sẽ giảm tỉ lệ đậu quả, kích thước quả và khả năng tích lũy đường trong quả kém (Mai Thị Phương Anh, 1996). Trời âm u, mây nhiều dẫn đến chất rắn hòa tan trong quả giảm. Yêu cầu ánh sáng cho dưa từ 8 - 12 giờ. Quang kì ngắn kết hợp với cường độ ánh sáng mạnh sẽ thúc đẩy cây ra hoa cái nhiều, tăng tỷ lệ đậu quả, quả chín sớm, năng suất cao.

- Ẩm độ: Dưa lê thuộc nhóm cây trồng chịu hạn nhưng không chịu úng. Hệ rễ của những cây này ăn sâu, phân nhánh nhiều nhưng chúng có khối lượng thân lá lớn, thời gian ra hoa, quả kéo dài, năng suất trên đơn vị diện tích cao nên những thời kỳ sinh trưởng quan trọng cần phải cung cấp đầy đủ nước . Ẩm độ thích hợp cho phát triển dưa lê là khoảng 75% - 80%. Thời kỳ cần nước là thời kỳ sinh trưởng thân lá, thời kỳ hình thành thân lá và thời kỳ quả phát triển (Tạ Thu Cúc, 2005). Ẩm độ đất cao trong giai đoạn chín sẽ làm giảm chất rắn hòa tan trong quả, dẫn đến chất lượng quả giảm. Ẩm độ đất cao trong giai đoạn phát triển sẽ làm tăng sâu bệnh.

- Đất và dinh dưỡng: Dưa lê thích hợp cho loại đất tơi xốp, tầng canh tác 
sâu, đất phù sa, thịt nhẹ, trong quá trình canh tác cần bón đầy đủ và cân đối NPK 
và phân chuồng. Cây yêu cầu nhiều nước và chất dinh dưỡng nhất là ở giai đoạn 
ra hoa và đậu quả (Phạm Hồng Cúc và cs, 1999; Drost and Hefellbower, 2010). Sự tăng trưởng của dưa lê tốt hay xấu thay đổi theo cơ cấu của đất.

- pH: Dưa lê phát triển tốt nhất trên đất thoát nước tốt như đất thịt pha cát có độ pH từ 6-6,5. Các loại đất có pH< 6 thì cây bị vàng lá và ít hoa cái.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây

  Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây Tên khoa học:  Globodera rostochiensis Wollenweber, 1923,G.pallida Stone, 1973           Là một trong những loài tuyến trùng hại khoai tây. Nếu cây bị nhiễm làm cho cây phát triển còi cọc, lá héo có thể làm chết cây. Nhiễm ở mức nghiêm trọng dẫn đến thiệt hại năng suất củ lên đến 80%. 1. Nguồn gốc           Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây là do tuyến trung G.pallida gây nên. Loại tuyến trùng này là loài phi bản địa có nguồn gốc từ Châu Âu. Lần đầu tiên phát hiện ở miền đông Idaho trong tháng 4 năm 2006. Cho đến nay, nó được phát hiện thấy và bị hạn chế tại 17 cánh đồng bị nhiễm khuẩn đại diện cho tổng số 1.916 mẫu Anh ở Bingham và Bonneville của Idaho. Mặc dù G.pallida bị giới hạn phân bố địa lý, sự hiện diện của chúng trong đất trồng tại mỹ đã có tác động sâu rộng làm đóng cửa, hạn chế thị trường xuất khẩu, giảm giá trị đất nông nghiệp và các khó khăn kinh tế khác. 2. Triệu chứng           Triệu chứng thể hiện lá biến vàng, l

Bệnh lùn sọc đen hại lúa, ngô

  Bệnh lùn sọc đen hại lúa, ngô Tên khoa học:  SRBSDV (Southern Rice Black-Streaked Dwarf Virus)            Để hạn chế tối đa ảnh hưởng,giảm mức thiệt hại do bệnh gây ra, người dân cần thiết áp dụng các biện pháp đồng bộ phòng trừ kịp thời ngay từ đầu vụ mới có thể đảm bảo năng suất lúa, ngô. 1 Triệu chứng gây hại 1.1 Gây hại trên cây lúa - Khi bắt đầu nhiễm bệnh rễ cây vẫn phát triển bình thường, về sau rễ kém phát triển dần, ngắn và sau đó chết. - Triệu chứng điển hình để nhận biết được xác định ít nhất 2 tuần qua môi giới truyền bệnh là rầy mang virus chích hút vào cây lúa khỏe. - Cây bị bệnh thường thấp lun, lá xanh đập hơn bình thường. Lá lúa bị xoăn ở đầu lá hoặc toàn bộ lá. Gân lá ở mặt sau bị sưng lên. Khi cây còn nhỏ, gân chính trên bẹ lá cũng bị phồng sưng. - Nếu cây bị nhiễm ở giai đoạn làm đòng và khi lúa có lóng, cây nhiễm bệnh thường nảy chồi trên đối thân và mọc nhiều rễ bất định. Trên bẹ và lóng thân mọc nhiều u sáp và bọc đen. Ở giai đoạn lúa trỗ, triệu c

Cây dược liệu Dây bông xanh

  Cây Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora (Roxb. ex Rottl.) Roxb Dược liệu Dây bông xanh có vị ngọt, tính bình; có tác dụng tiêu sưng, tiêu viêm, làm lành vết thương. Vỏ rễ dùng chữa đòn ngã tổn thương, đụng giập. Lá sắc uống dùng trị đau dạ dày. Dây và lá dùng đắp ngoài trị rắn cắn, đinh nhọt.   Hình ảnh cây Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora (Roxb. ex Rottl.) Roxb., thuộc họ Dây bông xanh - Thunbergiaceae. Bộ phận dùng:  Vỏ rễ, dây và lá -  Cortex Radicis, Caulis et Folium Thunbergiae . Nơi sống và thu hái:  Cây của vùng Đông Dương, mọc hoang ở đồng bằng và vùng núi nhiều nơi khắp nước ta. Cũng được trồng làm cây cảnh. Thu hái rễ vào mùa hè thu, tách lấy vỏ và bỏ lõi gỗ. Thu hái dây và lá quanh năm, dùng tươi hay phơi khô trong râm để dùng dần. Tính vị, tác dụng:  Dây bông xanh có vị ngọt, tính bình; có tác dụng tiêu sưng, tiêu viêm, làm lành vết thương. Công dụng, chỉ định và phối hợp:  Vỏ rễ dùng chữa đòn n