Chuyển đến nội dung chính

Câu chuyện về vải thiều

  Câu chuyện về vải thiều bắt đầu từ lịch sử phát triển của ngành trồng cây này và những câu chuyện thú vị liên quan đến nó. Dưới đây là một tóm tắt về câu chuyện và lịch sử của vải thiều: Xuất xứ và lịch sử: Vải thiều là loại cây ăn quả có nguồn gốc từ Trung Quốc, được trồng từ hàng ngàn năm trước đây. Theo truyền thuyết, vải thiều đã được tìm thấy và trồng lần đầu tiên tại vùng Thiều Châu, Trung Quốc. Từ đó, nó đã lan rộng sang các khu vực khác trên thế giới, bao gồm Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc và nhiều quốc gia khác. Quan trọng với khu vực Vải Thiều Bắc Giang: Tỉnh Bắc Giang ở Việt Nam đã trở thành nơi nổi tiếng với trồng vải thiều. Vải thiều Bắc Giang đã được công nhận là một trong những thương hiệu nổi tiếng của Việt Nam và có xuất khẩu sang nhiều quốc gia trên thế giới. Câu chuyện về sự quan trọng của vải thiều trong văn hóa địa phương: Vải thiều không chỉ là một loại cây trồng phổ biến, mà còn trở thành một biểu tượng văn hóa và kinh tế đặc trưng của một số khu vực. Ví dụ, ở Bắ

Phản ứng của đậu tương (đậu nành) đối với phân bón

 Phản ứng của đậu tương (đậu nành) đối với phân bón


Phản ứng của cây đậu tương với ni tơ (đạm):

Cây đậu tương là cây có nhu cầu phân đạm thấp, bởi đậu tương có khả năng cố định lượng đạm rất lớn từ khí quyển. Tuy nhiên đậu tương vẫn cần sử dụng đạm từ đất và phân bón.  Nhiều nghiên cứu cho thấy bón đạm trước khi gieo có ảnh hưởng xấu tới quá trình cố định N2.

Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy số nốt sần trên cây đậu tỷ lệ nghịch với tỷ lệ phân đạm ở lúc gieo, nếu phân đạm bón 56kg/ha, số nốt sần trên cây bị giảm, nhưng nếu bón 112 kg/ha ở giai đoạn cây ra hoa số nốt sần không bị ảnh hưởng (Nathanson và cs, 1984).  

Cũng không nên cho rằng với bất kỳ lượng đạm nào ở trong vùng rễ cây cũng sẽ ảnh hưởng xấu tới hình thành nốt sần. Mà thực ra, thí nghiệm trong phòng trồng trong chậu cát hoặc trong chậu dung dịch đã chứng tỏ rằng ở giai đoạn đầu sinh trưởng của đậu tương vẫn cần một lượng đạm nhỏ ở trong đất hoặc do phân bón, ngay cả khi có lây nhiễm vi khuẩn hợp lý.  

Cây đậu tương phản ứng ít đối với phân đạm, tuy nhiên phân đạm vẫn làm tăng năng suất, khối lượng hạt, tỷ lệ đạm trong hạt và hàm lượng protein. Việc tăng năng suất và tỷ lệ đạm trong hạt khi bón thêm đạm chứng tỏ cố định N2 không đủ để cung cấp cho cây.  

Phản ứng của đậu tương đối với phân đạm có liên quan với lượng NO3 dư thừa trong vùng rễ. Khi NO3 cư thừa trong vùng rễ thấp, phân đạm đã tăng năng suất đậu. Đa số những nghiên cứu về ảnh hưởng của phân đạm đối với sản xuất đậu tương được tiến hành ở độ sâu đất 15-30cm. đây cũng là vùng rễ có nhiều nốt sần nhất. Harper và Cooper (1971) công bố phân N ở nồng độ 150mg/kg dưới 30cm không có tác dụng kìm hãm sự hình thành nốt sần (trong Ngô Thế Dân và cs, 1999).  

Phản ứng của cây đậu tương với photpho (phân lân):  

Kết quả nghiên cứu cho thấy ảnh hưởng của yếu tố này tới sinh trưởng của đậu tương khá rõ ràng. Phốt pho đóng vai trò quan trọng đối với phát triển nốt sần ở đậu tương (Trần Văn Điền, 2001). Các thí nghiệm trong chậu cho thấy nốt sần hình thành tối đa ở mức photpho (lân) bón 400-500mg/kg, với hoạt tính tối đa của nó, nó yêu cầu photpho (lân) còn cao hơn. Tuy nhiên, bón nhiều photpho (lân) cũng gây ra nhiều vấn đề. Sự hấp thụ photpho (lân) và phản ứng đối với phân photpho (lân) cũng bị ảnh hưởng bởi độ ẩm đất. Ở điều kiện thiếu nước, sự hút photpho (lân) của cây giảm. Sau khi tưới cho cây đã bị khô dài hạn, nó sẽ hút photpho (lân) ở tỷ lệ cao hơn so với cây được tưới ở mức nước thích hợp.

Phản ứng của cây đậu tương với kali: 

Đậu tương sau khi thu hoạch lấy đi một khối lượng lớn kali từ đất. Vì vậy, các nghiên cứu cho rằng đậu tương có phản ứng với phân khu. Terman (1977) thấy rằng lượng chất khô và sự hấp thụ dinh dưỡng tối đa ở giai đoạn đầu hình thành quả (trong Ngô Thế Dân và cs, 1999). Nồng độ K trong lá, đỉnh sinh trưởng và hạt tăng cùng tỷ lệ K bón.  

Cũng như P, K rất cần cho sự phát triển của nốt sần. De Mooy và Pesek ( 1966) từ kết quả thí nghiệm trong chậu, họ tuyên bố rằng sự hình thành nốt sần tối đa khi bón K ở lượng 600-800mg/kg (trong Ngô Thế Dân và cs, 1999).  

Đỗ Ánh (1965) cho thấy đối với đậu tương tỷ lệ Ca: P: K tối thích là 2: l: 1,5. Đậu tương có thể hấp thụ photpho (lân) của các photphat khó tan AlPO4 FePO4  

Phản ứng của cây đậu tương với lưu huỳnh (S):  

Nhìn chung, đậu tương có nhu cầu cao với lưu huỳnh (S), vì vậy bón thêm lưu huỳnh (S) sẽ tăng năng suất đậu Thí nghiệm trong chậu cho thấy dinh dưỡng lưu huỳnh (S) của đậu tương có thể bị ảnh hưởng của nồng độ các chất dinh dưỡng khác.

Dinh dưỡng lưu huỳnh (S)có liên quan chặt chẽ với dinh dưỡng ni tơ (N) ở cây đậu. Các kết quả thí nghiệm cho thấy sinh trưởng và năng suất của cây đậu biến đổi nhiều với phân S. Chẳng hạn S bón trên đất cát vùng biển đã tăng năng suất của một vài loại cây trồng. Tuy nhiên, không thấy hiệu quả của phân lưu huỳnh (S) đối với đậu tương trên cùng loại đất đó. Dựa trên tất cả các kết quả nghiên cứu cho tới nay, phản ứng của đậu tương với lưu huỳnh (S) rất hạn chế.

Phản ứng của cây đậu tương với canxi (vôi):

Trên nền đất chua, vôi là yếu tố quan trọng giúp cho việc sản xuất đậu tương được thành công. Bón vôi nhằm:  

Giảm nồng độ của các chất độc chẳng hạn như: H, Al, Mn  

- Cung cấp dinh dưỡng cho cây: Ca, Mg, Mo.  

Cải tiến và tăng cường sự hình thành nốt sần và cố định đạm. Ở đất chua bón muôn sunphat và KCL mà không bón vôi nốt sần kém phát triển (Đỗ Ánh, 1965).  


Bón vôi trên đất chua tăng lượng Ca hấp thụ trong dung dịch đất. Tuy nhiên lượng Ca tăng ít có ảnh hưởng tới sinh trưởng của cây đậu tương nhất là ở đất trồng đậu ít khi bị thiếu Ca. Thực ra trong nhiều trường hợp đất chua, bón thêm lượng Ca hoà tan vào hoặc muối Ca hoặc Mg sẽ tăng Al trong dung dịch đất và vì vậy nó có thể kìm hãm sự sinh trưởng của cây. Lund (1970) công bố rằng nồng độ của Ca trong dung dịch 0,05 mg/l là phù hợp cho rễ sinh trưởng ở đất có pH = 5,6 (trong Ngô Thế Dân và cs, 1999).  

Phản ứng của cây đậu tương với các nguyên tố vi lượng:

Tầm quan trọng của các nguyên tố vi lượng thường có liên quan đến đặc tính đất (Lê Văn Tri, 2002). pH có ảnh hưởng tới nhu cầu của một số nguyên tố vi lượng. Trên đất giàu Ca có hiện tượng thiếu Fe. Bón phân trên lá có thể bổ sung sự thiếu hụt này. Mn cũng rất cần cho cây đậu tương. Bón theo hàng MnSO4 cho hiệu quả cao hơn bón vãi. Bón trên lá cho hiệu quả cao nhất nếu bón ở giai đoạn bắt đầu ra hoa, hoặc hình thành quả. Hoặc bón ở cả hai giai đoạn này. Bón Monoamonium photphat hoặc Diamonium photphat sẽ hạn chế thiếu Mn. Giảm pH đất dùng do hai loại phân này là yếu tố cơ bản dẫn tới tăng lượng Mn sẵn có trong đất.  

Khi pH đất ở phạm vi 5,8 - 6,7; xử lý hạt với Mo đã tăng năng suất đậu. Martins và cộng sự (1974) cho thấy đậu tương tương đối chịu được lượng B, Cu và Zn bón liều cao. Thí nghiệm trong 5 năm liền bón 3 , 3 kg. B/ha và 11,1 Zn/ha đã không có ảnh hưởng xấu tới năng suất đậu (Ngô Thế Dân và cs, 1999).

Độc hại của nhôm (Al) đối với cây đậu tương (đậu nành):

Độc hại của nhôm làm cây đậu tương nhạy cảm hơn đối với khô hạn và giảm khả năng tích luỹ P, Ca, Mg, K, Fe và N trong cây đậu tương. Quá trình đầu tiên bị ảnh hưởng bởi Al là sự kéo dài tế bào ở rễ, sự phân chia tế bào ở chóp rễ, có thể do hình thành những hợp chất phức tạp với axit nucleic trong quá trình phân bào giảm nhiễm. Vấn đề đó dẫn đến sự sản sinh ra những rễ phụ không có lông hút để hút nước và dinh dưỡng. Ở nồng độ Al cao, số nốt sần cũng bị giảm.  

Độc hại của Al thường xảy ra ở chân đất chua với tỷ lệ nhôm trao đổi cao. Bón vôi có thể giảm Al trao đổi ở tầng đất cày, nhưng ở bên dưới cũng còn nhiều khó khăn. Như vậy hiệu quả của việc khai thác nước và dinh dưỡng ở tầng đất dưới bị hạn chế do độc hại của nhôm.  

Để giảm độc hại của Al, một chiến lược quan trọng là thay đổi thành phán hoá học đất tức là giảm lượng nhôm trao đổi ở tầng đất dưới, hoặc chọn giống có tính chịu đựng cao, trong hai phương pháp đó, chọn giống là phương pháp dễ tiến hành hơn. Sự chịu đựng của cây đối với độc hại Al mang tính di truyền.  

Độc hại do Mangan (Mn) đối với cây đậu tương (đậu nành):

Dấu hiệu đầu tiên của độc hại Mn là biến dạng lá. Nhìn chung, dấu hiệu của nó bao gồm lá quăn, vàng và những mô bị chết ở trên lá. Sinh trưởng và năng suất của cây bị giảm do độc hại Mn lá do quang hợp bị gián đoạn, thông qua những rối loạn sinh hoá hoặc do giảm diện tích lá qua phân chia và sinh trưởng tế bào giảm.

Sự độc hại do Mn thường xảy ra trên đất axit, nhưng nó còn phụ thuộc vào nhiệt độ ở nhiệt độ thấp cây dễ bị ảnh hưởng độc hại của Mn hơn ở nhiệt độ cao. Chẳng hạn mức Mn ở trong dung dịch gây ra độc ở nhiệt độ 200C Sẽ không gây ra độc cho cây đậu tương ở nhiệt độ từ 28 - 31oC. Tuy nhiên nồng độ của Mn trong lá ở điều kiện nhiệt độ cao lại không khác với nồng độ ở nhiệt độ lạnh. Như vậy ảnh hưởng của nhiệt độ đối với sự nhạy cảm Mn gây độc không trực tiếp liên quan đến sự hấp thụ và tích luỹ Mn trong cây.  

Với lượng Mn bón cao, nồng độ Mn trong lá thường tăng với tuổi của lá, và trong cùng ngày lấy mẫu, lá non thường có tỷ lệ cao hơn lá già. Điều này chứng tỏ giai đoạn phân chia và sinh trưởng tế bào có nhạy cảm với độc hại Mn nhất. Sự độc hại có liên quan tới giống và nhiệt độ trong thời kỳ sinh trưởng.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây

  Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây Tên khoa học:  Globodera rostochiensis Wollenweber, 1923,G.pallida Stone, 1973           Là một trong những loài tuyến trùng hại khoai tây. Nếu cây bị nhiễm làm cho cây phát triển còi cọc, lá héo có thể làm chết cây. Nhiễm ở mức nghiêm trọng dẫn đến thiệt hại năng suất củ lên đến 80%. 1. Nguồn gốc           Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây là do tuyến trung G.pallida gây nên. Loại tuyến trùng này là loài phi bản địa có nguồn gốc từ Châu Âu. Lần đầu tiên phát hiện ở miền đông Idaho trong tháng 4 năm 2006. Cho đến nay, nó được phát hiện thấy và bị hạn chế tại 17 cánh đồng bị nhiễm khuẩn đại diện cho tổng số 1.916 mẫu Anh ở Bingham và Bonneville của Idaho. Mặc dù G.pallida bị giới hạn phân bố địa lý, sự hiện diện của chúng trong đất trồng tại mỹ đã có tác động sâu rộng làm đóng cửa, hạn chế thị trường xuất khẩu, giảm giá trị đất nông nghiệp và các khó khăn kinh tế khác. 2. Triệu chứng           Triệu chứng thể hiện lá biến vàng, l

Bệnh lùn sọc đen hại lúa, ngô

  Bệnh lùn sọc đen hại lúa, ngô Tên khoa học:  SRBSDV (Southern Rice Black-Streaked Dwarf Virus)            Để hạn chế tối đa ảnh hưởng,giảm mức thiệt hại do bệnh gây ra, người dân cần thiết áp dụng các biện pháp đồng bộ phòng trừ kịp thời ngay từ đầu vụ mới có thể đảm bảo năng suất lúa, ngô. 1 Triệu chứng gây hại 1.1 Gây hại trên cây lúa - Khi bắt đầu nhiễm bệnh rễ cây vẫn phát triển bình thường, về sau rễ kém phát triển dần, ngắn và sau đó chết. - Triệu chứng điển hình để nhận biết được xác định ít nhất 2 tuần qua môi giới truyền bệnh là rầy mang virus chích hút vào cây lúa khỏe. - Cây bị bệnh thường thấp lun, lá xanh đập hơn bình thường. Lá lúa bị xoăn ở đầu lá hoặc toàn bộ lá. Gân lá ở mặt sau bị sưng lên. Khi cây còn nhỏ, gân chính trên bẹ lá cũng bị phồng sưng. - Nếu cây bị nhiễm ở giai đoạn làm đòng và khi lúa có lóng, cây nhiễm bệnh thường nảy chồi trên đối thân và mọc nhiều rễ bất định. Trên bẹ và lóng thân mọc nhiều u sáp và bọc đen. Ở giai đoạn lúa trỗ, triệu c

Cây dược liệu Dây bông xanh

  Cây Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora (Roxb. ex Rottl.) Roxb Dược liệu Dây bông xanh có vị ngọt, tính bình; có tác dụng tiêu sưng, tiêu viêm, làm lành vết thương. Vỏ rễ dùng chữa đòn ngã tổn thương, đụng giập. Lá sắc uống dùng trị đau dạ dày. Dây và lá dùng đắp ngoài trị rắn cắn, đinh nhọt.   Hình ảnh cây Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora (Roxb. ex Rottl.) Roxb., thuộc họ Dây bông xanh - Thunbergiaceae. Bộ phận dùng:  Vỏ rễ, dây và lá -  Cortex Radicis, Caulis et Folium Thunbergiae . Nơi sống và thu hái:  Cây của vùng Đông Dương, mọc hoang ở đồng bằng và vùng núi nhiều nơi khắp nước ta. Cũng được trồng làm cây cảnh. Thu hái rễ vào mùa hè thu, tách lấy vỏ và bỏ lõi gỗ. Thu hái dây và lá quanh năm, dùng tươi hay phơi khô trong râm để dùng dần. Tính vị, tác dụng:  Dây bông xanh có vị ngọt, tính bình; có tác dụng tiêu sưng, tiêu viêm, làm lành vết thương. Công dụng, chỉ định và phối hợp:  Vỏ rễ dùng chữa đòn n