Phản ứng của đậu tương (đậu nành) đối với phân bón
Phản ứng của cây đậu tương với
ni tơ (đạm):
Cây đậu tương là
cây có nhu cầu phân đạm thấp, bởi đậu tương có khả năng cố định lượng đạm rất
lớn từ khí quyển. Tuy nhiên đậu tương vẫn cần sử dụng đạm từ đất và phân bón.
Nhiều nghiên cứu cho thấy bón đạm trước khi gieo có ảnh hưởng xấu tới quá
trình cố định N2.
Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy
số nốt sần trên cây đậu tỷ lệ nghịch với tỷ lệ phân đạm ở lúc gieo, nếu phân
đạm bón 56kg/ha, số nốt sần trên cây bị giảm, nhưng nếu bón 112 kg/ha ở giai
đoạn cây ra hoa số nốt sần không bị ảnh hưởng (Nathanson và cs, 1984).
Cũng không nên cho rằng với bất kỳ lượng đạm nào ở trong
vùng rễ cây cũng sẽ ảnh hưởng xấu tới hình thành nốt sần. Mà thực ra, thí
nghiệm trong phòng trồng trong chậu cát hoặc trong chậu dung dịch đã chứng tỏ rằng
ở giai đoạn đầu sinh trưởng của đậu tương vẫn cần một lượng đạm nhỏ ở trong đất
hoặc do phân bón, ngay
cả khi có lây nhiễm vi khuẩn hợp lý.
Cây đậu tương phản ứng ít đối với
phân đạm, tuy nhiên phân đạm vẫn làm tăng năng suất, khối lượng hạt, tỷ lệ đạm
trong hạt và hàm lượng protein. Việc tăng năng suất và tỷ lệ đạm trong hạt khi
bón thêm đạm chứng tỏ cố định N2 không đủ để cung cấp cho cây.
Phản ứng của đậu tương đối với phân
đạm có liên quan với lượng NO3 dư thừa trong vùng rễ. Khi NO3 cư thừa trong
vùng rễ thấp, phân đạm đã tăng năng suất đậu. Đa số những nghiên cứu về ảnh
hưởng của phân đạm đối với sản xuất đậu tương được tiến hành ở độ sâu đất
15-30cm. đây cũng là vùng rễ có nhiều nốt sần nhất. Harper và Cooper (1971)
công bố phân N ở nồng độ 150mg/kg dưới 30cm không có tác dụng kìm hãm sự hình
thành nốt sần (trong Ngô Thế Dân và cs, 1999).
Phản ứng của cây đậu tương với
photpho (phân lân):
Kết quả nghiên cứu cho thấy ảnh
hưởng của yếu tố này tới sinh trưởng của đậu tương khá rõ ràng. Phốt pho đóng
vai trò quan trọng đối với phát triển nốt sần ở đậu tương (Trần Văn Điền,
2001). Các thí nghiệm trong chậu cho thấy nốt sần hình thành tối đa ở mức
photpho (lân) bón 400-500mg/kg, với hoạt tính tối đa của nó, nó yêu cầu photpho
(lân) còn cao hơn. Tuy nhiên, bón nhiều photpho (lân) cũng gây ra nhiều vấn đề.
Sự hấp thụ photpho (lân) và phản ứng đối với phân photpho (lân) cũng bị ảnh
hưởng bởi độ ẩm đất. Ở điều kiện thiếu nước, sự hút photpho (lân) của cây giảm.
Sau khi tưới cho cây đã bị khô dài hạn, nó sẽ hút photpho (lân) ở tỷ lệ cao hơn
so với cây được tưới ở mức nước thích hợp.
Phản ứng của cây đậu tương với
kali:
Đậu tương sau khi thu hoạch lấy đi
một khối lượng lớn kali từ đất. Vì vậy, các nghiên cứu cho rằng đậu tương có
phản ứng với phân khu. Terman (1977) thấy rằng lượng chất khô và sự hấp thụ
dinh dưỡng tối đa ở giai đoạn đầu hình thành quả (trong Ngô Thế Dân và cs,
1999). Nồng độ K trong lá, đỉnh sinh trưởng và hạt tăng cùng tỷ lệ K bón.
Cũng như P, K rất cần cho sự phát
triển của nốt sần. De Mooy và Pesek ( 1966) từ kết quả thí nghiệm trong chậu,
họ tuyên bố rằng sự hình thành nốt sần tối đa khi bón K ở lượng 600-800mg/kg
(trong Ngô Thế Dân và cs, 1999).
Đỗ Ánh (1965) cho thấy đối với đậu
tương tỷ lệ Ca: P: K tối thích là 2: l: 1,5. Đậu tương có thể hấp thụ photpho
(lân) của các photphat khó tan AlPO4 FePO4
Phản ứng của cây đậu tương với
lưu huỳnh (S):
Nhìn chung, đậu tương có nhu cầu cao
với lưu huỳnh (S), vì vậy bón thêm lưu huỳnh (S) sẽ tăng năng suất đậu Thí
nghiệm trong chậu cho thấy dinh dưỡng lưu huỳnh (S) của đậu tương có thể bị ảnh
hưởng của nồng độ các chất dinh dưỡng khác.
Dinh dưỡng lưu huỳnh (S)có liên quan
chặt chẽ với dinh dưỡng ni tơ (N) ở cây đậu. Các kết quả thí nghiệm cho thấy
sinh trưởng và năng suất của cây đậu biến đổi nhiều với phân S. Chẳng hạn S bón
trên đất cát vùng biển đã tăng năng suất của một vài loại cây trồng. Tuy nhiên,
không thấy hiệu quả của phân lưu huỳnh (S) đối với đậu tương trên cùng loại đất
đó. Dựa trên tất cả các kết quả nghiên cứu cho tới nay, phản ứng của đậu tương
với lưu huỳnh (S) rất hạn chế.
Phản ứng của cây đậu tương với
canxi (vôi):
Trên nền đất chua, vôi là yếu tố
quan trọng giúp cho việc sản xuất đậu tương được thành công. Bón vôi nhằm:
Giảm nồng độ của các chất độc chẳng
hạn như: H, Al, Mn
- Cung cấp dinh dưỡng cho cây: Ca,
Mg, Mo.
Cải tiến và tăng cường sự hình thành nốt sần và cố định đạm. Ở đất chua bón muôn sunphat và KCL mà không bón vôi nốt sần kém phát triển (Đỗ Ánh, 1965).
Bón vôi trên đất chua tăng lượng Ca
hấp thụ trong dung dịch đất. Tuy nhiên lượng Ca tăng ít có ảnh hưởng tới sinh
trưởng của cây đậu tương nhất là ở đất trồng đậu ít khi bị thiếu Ca. Thực ra
trong nhiều trường hợp đất chua, bón thêm lượng Ca hoà tan vào hoặc muối Ca
hoặc Mg sẽ tăng Al trong dung dịch đất và vì vậy nó có thể kìm hãm sự sinh
trưởng của cây. Lund (1970) công bố rằng nồng độ của Ca trong dung dịch 0,05
mg/l là phù hợp cho rễ sinh trưởng ở đất có pH = 5,6 (trong Ngô Thế Dân và cs,
1999).
Phản ứng của cây đậu tương với
các nguyên tố vi lượng:
Tầm quan trọng của các nguyên tố vi
lượng thường có liên quan đến đặc tính đất (Lê Văn Tri, 2002). pH có ảnh hưởng
tới nhu cầu của một số nguyên tố vi lượng. Trên đất giàu Ca có hiện tượng thiếu
Fe. Bón phân trên lá có thể bổ sung sự thiếu hụt này. Mn cũng rất cần cho cây
đậu tương. Bón theo hàng MnSO4 cho hiệu quả cao hơn bón vãi. Bón trên lá cho
hiệu quả cao nhất nếu bón ở giai đoạn bắt đầu ra hoa, hoặc hình thành quả. Hoặc
bón ở cả hai giai đoạn này. Bón Monoamonium photphat hoặc Diamonium photphat sẽ
hạn chế thiếu Mn. Giảm pH đất dùng do hai loại phân này là yếu tố cơ bản dẫn
tới tăng lượng Mn sẵn có trong đất.
Khi pH đất ở phạm vi 5,8 - 6,7; xử
lý hạt với Mo đã tăng năng suất đậu. Martins và cộng sự (1974) cho thấy đậu
tương tương đối chịu được lượng B, Cu và Zn bón liều cao. Thí nghiệm trong 5
năm liền bón 3 , 3 kg. B/ha và 11,1 Zn/ha đã không có ảnh hưởng xấu tới
năng suất đậu (Ngô Thế Dân và cs, 1999).
Độc hại của nhôm (Al) đối với
cây đậu tương (đậu nành):
Độc hại của nhôm làm cây đậu tương
nhạy cảm hơn đối với khô hạn và giảm khả năng tích luỹ P, Ca, Mg, K, Fe và N
trong cây đậu tương. Quá trình đầu tiên bị ảnh hưởng bởi Al là sự kéo dài tế
bào ở rễ, sự phân chia tế bào ở chóp rễ, có thể do hình thành những hợp chất
phức tạp với axit nucleic trong quá trình phân bào giảm nhiễm. Vấn đề đó dẫn
đến sự sản sinh ra những rễ phụ không có lông hút để hút nước và dinh dưỡng. Ở
nồng độ Al cao, số nốt sần cũng bị giảm.
Độc hại của Al thường xảy ra ở chân
đất chua với tỷ lệ nhôm trao đổi cao. Bón vôi có thể giảm Al trao đổi ở tầng
đất cày, nhưng ở bên dưới cũng còn nhiều khó khăn. Như vậy hiệu quả của việc
khai thác nước và dinh dưỡng ở tầng đất dưới bị hạn chế do độc hại của nhôm.
Để giảm độc hại của Al, một chiến
lược quan trọng là thay đổi thành phán hoá học đất tức là giảm lượng nhôm trao
đổi ở tầng đất dưới, hoặc chọn giống có tính chịu đựng cao, trong hai phương
pháp đó, chọn giống là phương pháp dễ tiến hành hơn. Sự chịu đựng của cây đối
với độc hại Al mang tính di truyền.
Độc hại do Mangan (Mn) đối với
cây đậu tương (đậu nành):
Dấu hiệu đầu tiên của độc hại Mn là
biến dạng lá. Nhìn chung, dấu hiệu của nó bao gồm lá quăn, vàng và những mô bị
chết ở trên lá. Sinh trưởng và năng suất của cây bị giảm do độc hại Mn lá do
quang hợp bị gián đoạn, thông qua những rối loạn sinh hoá hoặc do giảm diện
tích lá qua phân chia và sinh trưởng tế bào giảm.
Sự độc hại do Mn thường xảy ra trên đất axit, nhưng nó còn
phụ thuộc vào nhiệt độ ở nhiệt độ thấp cây dễ bị ảnh hưởng độc hại của Mn hơn ở
nhiệt độ cao. Chẳng hạn mức Mn ở trong dung dịch gây ra độc ở nhiệt độ 200C Sẽ
không gây ra độc cho cây đậu tương ở nhiệt độ từ 28 - 31oC. Tuy nhiên nồng độ của Mn trong lá ở điều kiện
nhiệt độ cao lại không khác với nồng độ ở nhiệt độ lạnh. Như vậy ảnh hưởng của
nhiệt độ đối với sự nhạy cảm Mn gây độc không trực tiếp liên quan đến sự hấp
thụ và tích luỹ Mn trong cây.
Với lượng Mn bón cao, nồng độ Mn
trong lá thường tăng với tuổi của lá, và trong cùng ngày lấy mẫu, lá non thường
có tỷ lệ cao hơn lá già. Điều này chứng tỏ giai đoạn phân chia và sinh trưởng
tế bào có nhạy cảm với độc hại Mn nhất. Sự độc hại có liên quan tới giống và
nhiệt độ trong thời kỳ sinh trưởng.
Nhận xét
Đăng nhận xét