Kỹ thuật trồng và chăm sóc chè (tiếp)
4. Quản lý chăm sóc nương chè sản xuất
Sau khi kết thúc giai đoạn đốn tạo hình chè
con, cây chè có thể bước vào thời kỳ sản xuất kinh doanh. Thời kỳ này có thể
kéo dài 30 – 40 năm hoặc hơn tùy thuộc nhiều yếu tố quyết định đặc biệt là
trình độ thâm canh, quản lý kinh doanh của người sản xuất. Các khâu kỹ thuật
chăm sóc ở thời kỳ này ảnh hưởng lớn đến sự sinh trưởng, năng suất, phẩm chất
và tuổi thọ của cây chè.
Sau đây là biện pháp kỹ thuật chủ yếu:
4.1. Làm cỏ, xới xáo
- Vấn đề phòng trừ cỏ dại ở nương chè vẫn
là khâu quan trọng, mặc dù cây chè đã bước vào thời kỳ kinh doanh. Nhất là
trong điều kiện khí hậu nhiệt đới ở nước ta, các loại cỏ dại phát triển mạnh và
nhiều. Cần phải phòng trừ bằng nhiều biện pháp: Thủ công, cơ giới, hóa học,
tiến hành đầy đủ và triệt để ở các nương chè. Có như vậy cây chè mới sinh
trưởng tốt cho năng suất và chất lượng cao.
4.2. Bón phân thúc
Bón phân cho chè là 1 khâu kỹ thuật chủ yếu
có quan hệ và ảnh hưởng lớn đến năng suất và chất lượng chè.
* Cơ sở khoa học của biện pháp
bón phân
- Cây chè có khả năng hấp thụ dinh dưỡng
liên tục trong suốt quá trình sống của cây kể cả trong thời kỳ tạm ngừng sinh
trưởng, vì vậy cần phải cung cấp đầy đủ dinh dưỡng để cây sinh trưởng tốt cho
năng suất và chất lượng tốt.
- Trên cây chè có 2 quá trình sinh trưởng
dinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực song song tồn tại. Đây là 2 quá trình mâu
thuẫn và tranh chấp dinh dưỡng với nhau. Vì vậy muốn cho chè có sản búp cao thì
phải sử dụng phân bón hợp lý để hạn sinh trưởng sinh thực cho cây chè hái búp,
hoặc hạn chế sinh trưởng sinh dưỡng cho cây chè hái búp, hoặc hạn chế sinh
trưởng sinh dưỡng cho cây chè thu hoạch quả giống.
- Đối tượng cho thu hoạch trên cây chè là
búp và lá non, mỗi năm cho thu từ 50 – 100 tạ búp/ha hoặc hơn nữa. Người ta
phân tích hàm lượng N, P, K trong búp và lá chè: N (3,4 – 3.9%); P (0,4 –
0,9%); K2O (1,3 – 1,7%). Theo kết quả nghiêm cứu ở Trung Quốc cho biết: Muốn
đạt được sản lượng chè cao 7.500 kg/ha thì cây chè đã lấy đi của đất một lượng
dinh dưỡng là: N (375kg); P2O5 (75kg); K2O (112 – 150). Như vậy cây chè đã lấy
đi của đất một lượng dinh dưỡng lớn, ngoài ra đất còn bị rửa trôi xói mòn
tiêu hao một nguồn dinh dưỡng nữa. Vì vậy cần phải bổ sung lượng phân bón thích
hợp và đầy đủ cho cây chè.
* Vai trò của các loại phân
bón
- Phân N:
Là loại phân bón có tác dụng làm tăng năng
suất chè lớn nhất. Nó kích thích cho mầm và búp sinh trưởng khỏe, nếu bón N đầy
đủ và cân đối sẽ làm tăng cả phẩm chất chè. Theo kết quả nghiên cứu ở Liên Xô
cho biết: Bón N ở dưới mức 300 kg/ha sẽ làm tăng lượng tanin, cafein, và chất
hòa tan. Nếu bón trên 300 kg/ha sẽ làm giảm chất lượng chè vì hàm lượng nước và
alcaloits trong búp cáo quá, chè sẽ có vị chát đắng không ngon.
+ Khi sử dụng lượng N cần chú ý hiệu quả
kinh tế của nó. Theo kết quả nghiên cứu của Eden: Với chè trồng thuần ở
vùng khí hậu thì có năng suất chè có tương quan đường thẳng với lượng N bón. Ở
các vùng khí hậu biến động nhiều có che bóng cho chè thì mối tương quan phức
tạp hơn. Theo Briave, để đạt năng suất chè 10 tấn/ha cần bón lượng N – 200kg/ha,
sẽ có hiệu quả kinh tế cao. Trong các dạng N thì Nitrat amon là tốt hơn cả.
+ Khi cây thiếu N lá có màu xanh vàng.
Người ta có thể dùng phương pháp chuẩn đoán dinh dưỡng trong lá chè: Cây chè
thiếu đạm thì lượng N trong lá: 2,2 – 2,4%, trong búp non 3 – 3,5%. Cây chè đủ
N thì lượng N trong lá từ 2,9 – 3,4%, trong búp 4,7 – 5%.
- Phân lân:
+ Có hiệu lực nhất định đối với chè, tạo
cho bộ rễ phát triển tốt, nâng cao phẩm chất, đồng thời có hiệu lực lâu dài với
việc tăng năng suất búp.
+ Theo kết quả nghiên cứu của F.H.Urusatze
bón lân ở mức 120 – 900 kg/ha đã tăng sản lượng 5 – 30% ở 3 năm đầu, sau 21 năm
đã tăng sản lượng 60 – 80%. Ở Việt Nam cũng thấy bón lân 50 kg P2O5/ha đã tăng
sản lượng 19,6 – 37,9%.
- Phân Kali:
+ Nhu cầu phân kali của chè cũng khá nhiều.
Nếu những nơi đất thiếu kali nếu được bón đủ kali sẽ có tác dụng rõ rệt: Tăng
tính chống chịu của cây, đồng thời tăng năng suất và phẩm chất chè.
- Phân hữu cơ:
Đây là loại phân có tác dụng rất tốt cho
cây chè, vừa làm tăng năng suất búp, chất lượng búp mà còn có tác dụng cải tạo
đất tốt và lâu dài. Vì vậy trong sản xuất muốn đảm bảo nương chè cho năng suất
búp cao, ổn định, nhiệm kỳ kinh tế dài cần phải coi trọng bón phân hữu cơ
cho chè bằng các loại: phân chuồng, phân xanh, phân chấp, cành lá chè sau khi
đốn,...
- Phân vi lượng:
có vai trò quan trọng với cây chè, không
những làm tăng năng suất mà còn làm tăng phẩm chất rõ rệt, vì phân vi lượng có
trong thành phần của các men tham gia và điều khiển các quá trình trao đổi chất
trong cây. Đó là các nguyên tố: Mg, Mn, S, Al, B, Zn, Cu,… Kết quả nghiên cứu ở
Việt Nam cho thấy Zn là nguyên tố có hiệu quả hơn so với các nguyên tố khác,
nếu bón 2 – 5kg/ha sẽ làm tăng tannin 2 – 5%, catechin tăng từ 20 – 43%. Nếu sử
dụng thuốc trừ sâu trộn với Ure và B, Zn, sẽ làm tăng sản lượng chè 12 – 25%.
4.3. Kỹ thuật bón
Muốn sử dụng phân bón hợp lý và có hiệu quả
cho cây chè, cần dựa vào các nguyên tắc:
- Phân tích hàm lượng dinh dưỡng có trong
đất.
- Căn cứ tình hình sinh trưởng và tuổi cây.
- Dựa vào khí hậu, thời tiết.
- Bón phân cân đối, hợp lý giữa các loại
phân bón.
Về tỷ lệ N, P, K bón cho chè, tùy theo điều
kiện cụ thể từng nơi để xác định cho phù hợp, chẳng hạn như Liên Xô có tỷ lệ
N:P:K= 5:1:2; Ấn Độ N:P:K= 3:1:1,; Nhật 2:1:1, Trung Quốc: 3:2:1,…
Quy trình bón phân cho cây
chè:
Loại phân |
Khối lượng/ha |
Số lần |
Thời gian |
Phương pháp |
Phân hữu cơ |
25 tấn |
1 |
Tháng 11 - 12 |
Trộn đều, bón sâu 10cm 3 năm/1 lần |
Supe lân |
500kg |
1 |
Tháng 11 - 12 |
|
N |
80 – 100kg |
2 - 3 |
Tháng 3,6,9 |
Trộn đều, bón sâu 8cm, bón hằng năm, cày rạch hàng |
K2O |
40 – 60kg |
2 |
||
N |
120 – 160kg |
3 - 4 |
Tháng 3, 6, 9 |
Trộn đều, bón sâu 8cm, bón hàng năm, cày rạch hàng |
K2O |
60 – 80kg |
3 - 4 |
4.4. Kỹ thuật đốn chè
Đốn chè trong sản xuất là một trong những
khâu kỹ thuật trọng yếu và đặc thù của cây chè có ảnh hưởng rất lớn đến sinh
trưởng, năng suất, phẩm chất và tuổi thọ của cây chè. Muốn đốn chè hợp lý cần
dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn sản xuất.
* Cơ sở khoa học của biện pháp
đốn chè:
- Theo lý luận phát dục giai đoạn của
Krenke: Ở các vị trí trên cành chè có trình độ phát dục khác nhau.: Đoạn cành
phía ngoài có trình độ phát dục già hơn phía trong. Vì vậy cần phải cắt bỏ
những đoạn đó, đoạn còn lại sẽ phát triển tốt hơn.
- Đốn chè sẽ phá vỡ ưu thế sinh trưởng đỉnh
của các mầm đỉnh, hoặc mầm đỉnh bị mất đi tạo điều kiện kích thích thúc đẩy các
mầm nách ở đoạn cành trồng hoạt động, xuất hiện và phát triển thành chè mới.
- Đốn chè còn phá vỡ cân bằng giữa các bộ
phận trên và dưới mặt đất, kích thích các loại mầm trên thân và cành như mầm
ngủ, mầm bất định. Như vậy bộ phận trên mặt đất hoạt động và phát triển mạnh mẽ
sinh ra nhiều cành và búp mới.
Mục đích của biện pháp đốn chè:
- Làm cho cây chè luôn ở trạng thái sinh
trưởng sinh dưỡng, hạn chế sự phát dục, tạo cơ hội thuận lợi cho ra búp và lá.
Do đó sẽ tạo cho cây chè có nhiều cấp cành trên thân, tăng được mật độ và trọng
lượng búp.
- Tạo cho cây chè có bộ khung tán to, rộng,
vừa ngang tầm với người hái chè, nâng cao hiệu xuất lao động.
- Cắt bỏ những cành già yếu, bị sâu bệnh.
Giữ lại những cành tốt và ra thêm những cành mới tạo cho cây chè có bộ lá thích
hợp để tổng hợp chất hữu cơ nuôi cây.
* Các hình thức đốn chè
Tùy theo tình hình sinh trưởng, sức sống
của cây chè mà trong quá trình sản xuất mà người ta có thể áp dụng các hình
thức đốn chè như sau:
- Đốn phất:
Còn được gọi là đốn cao, được tiến hành
hằng năm với vết đốn năm sau cách năm trước 2 – 5 cm.
+ Ở vùng nhiệt đới có thể đốn mặt lòng chảo
là phù hợp, tạo điều kiện cho búp ở giữa tán phát triển và sau này tán chè rộng
và bằng phẳng. Trong điều kiện ở các nước khác như Liên Xô, Nhật Bản lại đốn
theo kiểu mầm xôi tạo cho diện tích tán rộng hơn, nhiều búp,…
- Đốn lửng:
Qua nhiều năm đốn phớt liên tục, cây cao
quá tầm người hái, đồng thời búp nhỏ, mù xòe nhiều,….cần được tiến hành đốn
lửng: Còn lại chiều cao cây 60 – 65cm, kích thích cành, và búp mới xuất hiện,
tạo cho cây chè có tán to rộng phát triển mạnh về bề ngang.
- Đốn đau:
Sau nhiều năm đốn phớt, đốn lửng, nếu cây
chè có biểu hiện suy yếu, cành nhỏ, tăm hương nhiều, búp ít và b, búp mù xòe
nhiều, có hiện tượng năng suất giảm đột ngột thì phải tiến hành đốn đau cho cây
chè. Để lại phần thân và cành ở độ cao 40 – 45cm, nhằm kích thích các loại mầm
ngủ ở dưới phát triển thành những cành chè mới, cho búp mới, tạo tán chè mới
sung túc hơn. Sau đốn đau năng suất chè 1 – 2 năm đầu bị giảm đi, sau sẽ phục
hồi tốt. Cần tiến hành chăm sóc và bón phân đầy đủ.
- Đốn trẻ lại:
Khi cây chè bước vào thời kỳ già cỗi suy
yếu có biểu hiện tàn lụi tự nhiên. Cành nhỏ thưa, búp ít nhỏ, ra hoa hiều,… Cần
được đốn trẻ lại để đoạn thân: 12 – 15cm, nhằm kích thích các mầm bất định ở
sát gốc hoạt động tạo ra cành chè mới, hình thành bộ khung tán mới, khỏe hơn và
sung sức hơn. Sau đốn trẻ lại cây có thể bị mất năng suất 3 – 4 năm, về sau sẽ
phát triển rất nhanh. Cần chăm sóc và bón phân đầy đủ.
* Thời vụ đốn:
Căn cứ vào tình hình đặc điểm khí hậu thời
tiết của từng vùng, có thể tiến hành đốn sớm hay muộn, thông thường thời vụ
chính đốn chè vào khoảng tháng 12 – tháng 2 hằng năm. Lúc này cây chè ở tình
trạng tạm ngừng sinh trưởng: không phát triển các bộ phận mới, bộ rễ cũng mạnh,
thân cành đang tích lũy các chất dinh dưỡng cần thiết để phát triển những mầm
mới về sau. Sau khi đốn 1 thời gian ngắn cây chè bước vào mùa xuân là điều kiện
thuận lợi để sinh ra cành búp mới và cho thu hoạch sớm.
* Cách thức đốn chè
- Nếu đốn thủ công thì có thể dùng dao có
lưỡi dài 30 – 35 cm, đầu lưỡi cong, cán gỗ dài 30cm, và sắc.
+ Khi đốn phải đốn vát từ giữa tán ra 2
bên, nhất là khi đốn đau cần cắt vát các cành có mặt cắt quay vào trong.
+ Nếu dùng kéo đốn chè thì năng suất
lao động cao hơn nhưng có thể bị dập cành hoặc không cắt được cành lớn. Ở 1 số
nước tiên tiến như Liên Xô, Nhật Bản sử dụng máy đốn chè.
+ Chu kỳ đốn: Sau khi cây chè độ 5 – 6
tuổi, sẽ đốn cao trên vết cũ 5cm, sau đó hằng năm lại đốn cao hơn vết cũ 3cm.
Khi cây cao 70cm, thì hằng năm chỉ đốn cắt 1 – 2 cm trên ngọn. Khi cây cao quá
90 cm cần phải đốn lửng cách mặt đất 60 – 65cm, rồi lại tiếp tục đốn phớt như
trên, sau 3 lần đốn lửng thì lại tiến hành đốn đau cao 40 – 45cm, rồi lại tiếp
tục đốn phớt,…Cần chú ý chăm sóc tốt cho chè chóng phục hồi, và sinh trưởng
khỏe cho năng suất và chất lượng cao.
4.5. Phòng trừ sâu bệnh hại
chè
- Trên cây chè ở vùng nhiệt đới Việt Nam có
đến 60 – 70 loại sâu bệnh hại chè. Mức độ gây hại hàng năm tính ra bằng 15 –
20% sản lượng thu hoạch. Các loại sâu bệnh hại chè có thể chia ra các nhóm sau
đây:
- Sâu bệnh hại búp chè: Bọ xít muỗi, sâu
cuốn búp, rày xanh, nhện đỏ, bọ cánh tơ, bệnh thối búp, bệnh phồng lá chè.
- Sâu bệnh hại lá: Sâu chum, sâu róm, bệnh
chấm nâu, chấm xám, táo đỏ.
- Sâu bệnh hại cành thân: sâu đục thân, sâu
đục gốc, bệnh sùi cành chè, mối, dế, rong rêu, địa y,…
Nhận xét
Đăng nhận xét