Cây dứa (thơm)
Tên tiếng anh/Tên khoa học: Pineapples, Ananas comosus
Tên khoa học: Ananas comosus
Dứa (thơm) thuộc chi dứa: Ananas
Họ dứa: Bromeliaceae
Được biết đến nhiều nhất là loài
Ananas comosus, là loại dứa (thơm) cho quả ăn được.
Nguồn gốc: dứa
(thơm) là cây ăn quả nhiệt đới, nguồn gốc ở Nam Mỹ (Brazil, Achentina,
Paragoay. Hiện nay trên thế giới, cây dứa (thơm) được trồng hầu hết các nước
nhiệt đới và một số nước á nhiệt đới có mùa sông tương đối ẩm như đảo Hawai,
Đài Loan. Dứa (thơm) có thể trồng tới vĩ tuyến 38o bắc, trong
đó các nước Châu Á chiếm trên 60% sản lượng dứa (thơm) cả thế giới. Các nước
trồng nhiều là Philippines, Thái Lan, Malaysia, Hawai, Brazil, Mêhicô, Cuba,
Úc, Nam phi.
Các giống dứa (thơm) và vùng
trồng tại Việt Nam
Dứa được phân thành ba nhóm chính:
Nhóm hoàng hậu (Queen), nhóm Cayen (Cayenne), nhóm dứa Tây Ban Nha (Spanish).
- Nhóm dứa hoàng hậu (Queen).
Dứa thuộc nhóm này có khối lượng và
độ lớn trung bình từ 500 - 900gram, bản lá hẹp, cứng, nhiều gai ở mép lá, mặt
trong của phiến lá có vân trắng chạy song song theo nhiều lá. Hoa có màu xanh
hồng, mắt quả lồi, chịu vận chuyển, thịt quả màu vàng đậm, thơm đặc trưng, vị
ngọt.
Đây là nhóm dứa có phẩm chất cao nhất đang được trồng phổ biến ở nước ta và đại diện là các giống: dứa hoa, dứa tây, dứa Vitoria, khóm.
- Nhóm dứa Cayen (hay Smooth
Cayenne)
Dứa này thuộc nhóm có khối lượng trung bình 1,5 - 2,0kg/quả. Lá màu xanh đậm, dài, dày, không có gai hoặc rất ít gai ở gốc hay chóp lá. Hoa tự có màu hồng, hơi đỏ, quả hình trụ (hình quả trứng), mắt quả to, hố mắt nông. Chín dần, khi chín màu vàng chuyển dần từ cuống tới chóp quả.
Đại diện là các giống: Chân Mộng,
Đức Trọng, Trung Quốc, Thái Lan, Cayen có gai, Mehico.
Loại này tuy chất lượng không cao
lắm nhưng được trồng nhiều để chế biến do quả to dễ cơ giới hoá, cho hiệu quả
kinh tế. Dựa vào đặc điểm của từng nhóm dứa ta thấy nhóm dứa Cayen thích hợp
nhất cho việc sản xuất công nghiệp mặt hàng dứa như đồ hộp, nước dứa, xirô dứa.
Giống Cayen nhạy cảm với nhiều loài
côn trùng gây hại (sâu đục quả, nhện đỏ...) và bệnh (, tuyến trùng, thối trái,
thối lõi, thối gốc...). Tuy nhiên, nó được coi là có khả năng chịu được nấm
Phytophthora sp. và đề kháng với sự phá hại trái do vi khuẩn Erwinia
chrysanthemi Burkbolder.
- Nhóm dứa Tây Ban Nha (Spanish hay Red
Spanish)
Nhóm dứa này có khối lượng trung
bình 700 - 1000gram. Lá mềm, mép lá cong ngả nhiều về phía lưng, mật độ gai
phân bố không đều trên mép lá. Hoa tự có màu đỏ nhạt, Khi chín vỏ quả có màu đỏ
xẫm, hố mắt sâu, thịt quả vàng, phớt nắng, vị chua, nhiều xơ.
Đại diện là các giống: dứa ta, dứa mật, thơm. Dứa này có chất lượng kém nhất.
Với tổng sản lượng đạt 20 triệu
tấn/năm. Tại Việt Nam, dứa được trồng khắp từ Bắc đến Nam, trên diện tích
khoảng 40.000ha, sản lượng trên 500.000 tấn/năm, trong đó 90% diện tích tập
trung ở phía Nam. Các tỉnh có diện tích trồng dứa lớn gồm Tiền Giang (14.8000
ha), Kiên Giang (10.000ha), Hậu Giang (gần 1.600 ha), Long An (1.000 ha), Thanh
Hóa (từ 3.789 ha (2005) xuống 1.910 ha (2011)), Ninh Bình (3000ha)… Mặc dù giá
trị dinh dưỡng của dứa rất quan trọng đối với con người nhưng chất lượng cũng
như giá trị kinh tế dứa mang lại cho người trồng chưa cao.
Mô tả sơ bộ về cây dứa (thơm)
- Thân cây dứa (thơm): Cây trưởng thành thân cao khoảng 1 - 1,2m có dạng con cừu đáy bẹt, đường kính tán rộng 1,3 - 1,5m. Bóc lá ra có thân nằm bên trong dài khoảng 20 - 30cm với phần gần ngọn thân to nhất có đường kính 5,5 - 6,5cm, cuối thân rộng 2 - 3,5cm. Phần thân trên thường cong, phần thân dưới có thể cong nếu chồi đem trồng là chồi cuống hay chồi thân và thẳng nếu chồi đem trồng là chồi ngọn
Trên thân có chia nhiều lóng và đốt.
Ở đốt thân có mang những mầm ngủ. Các lóng từ phần giữa thân dài khoảng 1 -
10cm tùy theo giống, điều kiện môi trường…. Các lóng từ phần giữa thân trở lên
dài hơn các lóng ở bên dưới. Bên trong thân dứa (thơm) chia làm 2 phần là phần
vỏ và trung trụ. Nơi tiếp giáp giữa vỏ và trung trụ có một hệ thống mạch rất
mỏng, chủ yếu gồm các tế bào gỗ và các tế bào libe. Mô mạch không liên tục, bị
thủng nhiều chổ, qua đó các bó mạch chạy dài đến lá. Chính hệ thống mạch này đã
tạo ra các rễ phụ mọc ra trên thân. Trung trụ gồm một khối tế bào nhu mô có
nhiều hạt tinh bột và tinh thể, trong đó các bó mạch xếp thành vòng xoắn ốc
xuyên qua nhau làm thành một mạng lưới rất phức tạp.
- Lá cây dứa (thơm): Số lá trên cây
thay đổi tùy theo giống trồng trọt. Lá được xếp theo hình xoắn ốc, lá non ở
giữa là già ở ngoài cùng. Hình dạng lá thay đổi tùy theo vị trí của chúng trên
thân, tức theo tuổi lá.
Các đặc điểm chung của lá dứa (thơm):
+ Gai lá: lá có nhiều hay ít gai thay đổi tùy theo giống trồng.
+ Tầng mao bộ: bao bên ngoài lá
giống như một lớp sáp mòng trắng, mặt dưới lá có nhiều hơn mặt trên.
+ Tầng tế bào chứa nước: nằm ở phần
giữa lá, gồm một số tế bào hình cột phía dưới lớp biểu bì. Tầng tế bào này giúp
lá trữ nước khi khô hạn
+ Bó sợi ở lá: nằm giữa lá, bao bọc
bởi các mạch libe và gỗ. Tế bào sợi dài, chắc, có thể dùng lấy sợi dệt vải
+ Dạng hình máng xối: lá có dạng hình máng xối giúp cây nhận
được nước hữu hiệu, chịu đựng khô hạn tốt
- Chồi dứa (thơm): Cây dứa (thơm) có các loại chồi như sau:
+ Chồi ngọn: Mọc ra ở đầu ngọn trái, mang nhiều lá, lá nhỏ, ít
cong lòng máng, góc chồi thẳng. Trồng bằng chồi ngọn lâu thu hoạch (khoảng 18
tháng). Có thể dùng mầm ngủ trên chồi ngọn để nhân giống.
+ Chồi thân: Mọc ra từ mầm ngủ trên
thân, thường xuất hiện sau khi cây mẹ đã ra hoa, có 1 - 2 chồi. Chồi to, khỏe,
ít lá, lá cứng, tán chồi gọn. Gốc chồi dẹp, hơi cong. Chồi thân dùng để thay
thế cây mẹ ở mùa gốc. Trồng chồi thân mau thu hoạch, khoảng 12 tháng.
+ Chồi cuống: Mọc ra từ mầm ngủ trên
cuống trái, ngay sát dưới đáy trái, hình dạng hơi giống chồi thân nhưng nhỏ
hơn, góc chồi cong, phình to. Trong sản xuất thường dùng loại chồi này vì số
lượng nhiều.
+ Chồi ngầm: Mọc ra từ phần thân dưới mặt đất hoặc nơi cổ
rễ. Chồi có lá dài, hẹp, mộc yếu do bị các lá bên trên che ánh sáng. Trồng lâu
thu hoạch, khoảng 18 - 20 tháng
- Rễ cây dứa (thơm): Krauss chia rễ thành 3 nhóm:
+ Rễ sơ cấp: phát sinh từ phôi của
hột, chỉ thấy được khi trồng dứa (thơm) bằng hột
+ Rễ phụ: là loại rễ quan trọng nhất
của cây, mọc trên thân, phát sinh từ hệ thống mạch giữa vỏ và trung trụ.
+ Rễ thứ cấp: là những rễ nhỏ mọc ra từ các rễ phụ
- Hoa cây dứa (thơm):
Dứa (thơm) có hoa lưỡng tính, hoa
gồm có 1 lá bắc, 3 lá đài mập, 3 cánh hoa có màu tím nối liền thành một ống, 6
nhị đực và 1 vòi nhụy cái. Bầu noãn chia làm 3 ngăn với vách ngăn dầy. Trên
trái hoa xếp theo 2 vòng xoắn ốc. Vòng xoắn theo chiều dốc nhiều chứa 8 - 10
hàng, chiều dốc ít chứa khoảng 11 - 13 hàng. Hoa thường nở buổi sáng, khoảng 5
- 10 hoa mỗi ngày nên mất 15 - 20 ngày mới nở hết hoa trên trái.
- Trái dứa (thơm):
Trái dứa (thơm) là loài trái kép gồm
nhiều trái con (100 - 200 trái con hay hoa). Sau khi thụ phấn, các hoa, nhị đực
và vòi nhụy cái tàn héo đi. Gốc lá bắc mập ra, cong úp lên che các lá đài. Các
lá đài trở nên có thịt và hợp lại tạo thành núm, khi trái gần chín chúng dẹp
xuống trở thành “mắt” của trái. Các trái con dính vào một trục phát hoa gọi là
cùi của trái, cùi dứa (thơm) kéo dài ra bên ngoài gọi là cuốn trái
Giá trị kinh tế của trái dứa
(thơm)
Trái dứa (thơm) được coi là một trong những cây ăn quả nhiệt đới hàng đầu, loại quả “vua”, rất được ưa chuộng ở các nước phương Tây. trái dứa (thơm) có mùi thơm mạnh, chứa nhiều đường, lượng calo khá cao, giàu chất khoáng, nhất là Kali, có đủ các loại vitamin cần thiết, đặc biệt trong cây và trái dứa (thơm) có chất Bromelin là một loại men thủy phân protêin có thể chữa được các bệnh rối loạn tiêu hóa, ức chế phù nề và tụ huyết, làm vết thương mau thành sẹo. Trong công nghiệp, chất Bromelin dùng làm mềm thịt để chế biến thực phẩm, nước chấm.
Ngoài ăn tươi, trái dứa (thơm) chế biến thành dứa (thơm) hộp
và nước dứa (thơm), là những mặt hàng xuất khẩu lớn. Xác bã trái dứa (thơm) sau
khi chế biến dùng làm thức ăn gia súc và phân bón. Thân lá dứa (thơm) làm bột
giấy, để lấy sợi.
Thành phần hoá học (dinh dưỡng)
trong trái dứa (thơm)
Nước 75,7%, protid 0,68%, lipid
0,06%, glucid 18,4% (saccharose 12,43%, glucose 3,21%), chất chiết xuất 4,35%,
cellulose 0,57%, tro 1,24%. Còn có acid citric, acid malic và các vitamin A, B,
C. Trong quả có một chất men tiêu hoá là bromelin có thể thuỷ phân trong vài
phút một lượng protein bằng 1000 lần trọng lượng của nó và so sánh được với
pepsin và papain. Ngoài ra còn có iod, magnesium, mangan, kalium, calcium,
phosphor, sắt, lưu huỳnh.
Trái dứa (thơm) trong y học
+ Tính vị, tác dụng: trái dứa
(thơm) có vị chua ngọt, tính bình, có tác dụng giải khát, sinh tân dịch, giúp
tiêu hoá; nước dứa (thơm) nhuận tràng, tiêu tích trệ. Nõn dứa (thơm) thanh
nhiệt giải độc; rễ dứa (thơm) lợi tiểu. Dịch ép lá và quả chưa chín có tác dụng
nhuận tràng và tẩy.
+ Công dụng, chỉ định và phối
hợp: Được chỉ định dùng trong các trường hợp: thiếu máu, giúp sự sinh
trưởng, dưỡng sức, thiếu khoáng chất, trong chứng khó tiêu, khi bị ngộ độc,
trong các bệnh xơ cứng động mạch, viêm khớp, thống phong và sỏi, trong chứng
béo phì. Bromelin được dùng chữa bệnh rối loạn tiêu hoá dạ dày - ruột, dùng làm
thuốc tiêu viêm, giảm phù, chữa các vết thương, vết bỏng cho mau lành sẹo. Dứa
(thơm) còn là nguyên liệu chiết bromelin, có nhiều trong thân dứa (thơm) (phần
lõi trắng của chồi), trong quả (ở vỏ dứa (thơm) có nhiều hơn trong dịch chiết
quả. Thường dùng quả chín để ăn tươi hoặc ép lấy nước uống hoặc dùng bromelin.
Nhận xét
Đăng nhận xét