Chuyển đến nội dung chính

Chính sách quyền riêng tư,

Cây đậu xanh

 Cây đậu xanh

Tên tiếng anh/Tên khoa học: Mung bean, Green bean

Tên khoa học: Vigna radiata

Nguồn gốc: Đậu xanh có nguồn gốc từ Ấn Độ và Trung Á , phân bổ chủ yếu ở các vùng nhiệt đới và á nhiệt đới, là cây trồng khá quen thuộc ở Châu Á và rất phổ biến ở nước ta. Cây đậu xanh có khả năng thích ứng rộng, chịu hạn khá và có thể thích nghi với các vùng có điều kiện khắc nghiệt. Khu vực Đông và Nam Châu Á, cây đậu xanh được trồng nhiều ở các quốc gia như: Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Sri Lanka, Nepal Trung Quốc, Thái Lan, Philippin, Miến Điện, Inđônexia; hiện nay đã được phát triển tại một số quốc gia ở vùng ôn đới, ở Châu Úc, lục địa Châu Mỹ.

Mô tả sơ bộ về cây đậu xanh

Đậu xanh thuộc loại cây thảo mọc đứng. Lá mọc kép 3 chia, có lông hai mặt. Hoa màu vàng lục mọc ở kẽ lá. Quả hình trụ thẳng, mảnh nhưng số lượng nhiều, có lông trong chúa hạt hình tròn hơi thuôn, kích thước nhỏ, màu xanh, ruột màu vàng, có mầm ở giữa.

- Thân

Thân đậu xanh thường có 4 cạnh, thân xanh hoặc tím đỏ tùy thuộc vào giống. Trên thân có lông phủ, nhất là ở phần thân non. Gần gốc, long rụng, thân nhẳn hơn.

Thân cao 30-60 cm. Trong điều kiện thuận lợi, htaan có thể cao tới 80-100 cm tùy giống.

Tốc độ tăng trưởng chiều cao thân từ ngày thứ 20 đến khi ra hoa, quả tương đối ổn định – có thể đatu 1-1,5 cm/ ngày.

Khi quả hình thành, tốc độ sinh trưởng thân giảm dần và sau khi thu hoạch lần 1, sinh trưởng thân hầu như đình lại (0 – 0,2 cm/ngày).

- Cành

Đậu xanh thường có 2-4 cành, tùy thuộc ở giống và điều kiện canh tác. Cành mọc từ nách lá kép đầu tiên. Các cành đầu tiên xuất hiện khi có 4-5 lá trên thân chính.

Đậu xanh thường chỉ có cành cấp I. Nếu trồng dày, số cành giảm rõ reetjthaamj chí không phân cành.

- Lá

Lá đậu xanh là lá kép có 3 lá chét.

Khi đậu mọc, 2 lá mầm tách ra và đôi lá thật đầu tiên xuất hiện, đó là 2 lá đơn, mọc đối. Tiếp sau đó mới xuất hiện các lá kép. Lá kép mọc cách, lá thường to bản và cả 2 mặt lá đều có long tơ. Độ dày của long tùy thuộc vào giống.

Số lá trên thân chính thường 8-10 lá. Chỉ số kiện tích lá của đậu xanh thưởng chỉ đạt 2-3 do phiến lá to, lá thường nằm ngay nên tỷ lệ che khuất cao. Diện tích ls đậu xanh đạt cao nhất khi bắt đầu thu hoạch và giảm nhanh trong thời gian thu hoạch.

Lá trên cành cũng to và có màu sắc như lá trên thân chính.

- Rễ

Rễ đậu xanh cững như các cây họ đậu khác là rễ cọc. Tuy nhiên, đâu xanh có hệ rễ bên rất phát triển.

Rễ cọc phát triển từ rễ mầm của phôi, rễ có thể ăn sâu tới 80-100 cm. Thông thường, rễ phân bố chủ yếu ở lớp đát 0-30 cm (chiếm tới 85 -90 % trọng lượng rễ).

Nốt sần đậu xanh xuất hiện tất sớm (sau gieo 10-15 ngày) và nhiều. Nốt sần do vi sinh vật cộng sinh cố định N Rhigobium sp. Cường độ cố định N của đậu xanh ở thời điểm hoạt động mạnh nhất có thể đạt 1,37-2,05 mg/cây/ngày.

- Hoa

Hoa đậu xanh mọc thành chum ở nách lá. Cuống hoa tự tương đối dài, có thể đạt 5-10 cm. Đối với các giống địa phương cũ cuống hoa chỉ đạt 5-10 cm vì vậy quả ra rải rác, khó thu hoạch. Với những giống cải tiến, hoa vị trid thấp có cuống hoa dài hơn hoa ở vị trí cao, vì vậy quả thường vượt lên trên tầng lá tạo nên tang quả ở trên tán lá, dễ thu hoạch.

Thường thường, đậu xanh bắt đầu nở hoa khoảng 40-45 ngày sau khi gieo (vụ xuân) và 30 -35 ngày (vụ hè). Thời gian ra hòa kéo dài, liên tục khoảng 15-40 ngày tùy giống và điều kiện canh tác.

Hoa đậu xanh là hoa lưỡng tính, cánh tràng màu xanh tím, cáh hoa vàng nhạt. Sự thụ phấn được tiến hành trước khi hoa nở 3-5 giờ, vì vậy hoa chủ yếu tự thụ phấn, tỷ lệ giao phấn trong tự nhiên chỉ chiếm khoảng 2 %.

Tổng số hoa/cây biến động 30-120 hoa, tong điều kiện thuận lợi có thể đạt 150-200 hoa. Nhưng tỷ lệ đậu quả của đậu xanh thường thấp, chỉ đạt 10-20%. Có lẽ đây cũng là yếu ố hạnh chế năng suất đậu xanh.

- Quả và hạt đậu xanh

Quả xuất hiện 1-2 ngày sau khi hoa nở và đã có độ dài 1-1,5 cm.

Quả lớn nhanh trong khoảng 5-7 ngày đầu và đạt kích thước tối đa vào khoảng 8-10 ngày sau khi hoa nở. Quả dài 8-13 cm tùy từng giống.

Quả non màu xanh, có long. Vỏ quả non có thể quang hợp được. Khi hạt chín, vỏ quả khô dần và chuyển sang màu nâu tới đen. Khi vở quả đen hoàn toàn là khi hạt đã chín đẫy, có thể thu hoạch. Một số giống khi chín vỏ quả màu tro xám.

Trong điều kiện bình thường (nhiệt độ 28 – 35 %) thời gian từ khi hoa nở đế khi quả chín chỉ khoản 14-20 ngày.

Hạt đính thành một hàng trong vỏ quả. Số hạt/quả trong điều kiện bình thường khoảng 8-14 hạt.

Thời gian sinh trưởng của cây đậu xanh

Đậu xanh là một loại cây thực phẩm ngắn ngày có khả năng thích ứng rộng trên nhiều vùng, miền khác nhau, thời gian sinh trưởng chỉ khoảng 65- 70 ngày.

Dinh dưỡng trong hạt đậu xanh

Đậu xanh có thành phần dinh dưỡng cao, hạt chứa nước 14%; protid 23,4%, lipid 2,4%, glucid 53,10%, cellulose 4,7%. Còn có các nguyên tố vi lượng Ca, P, Fe và các vitamin (tiền sinh tố A, B1, B2, PP, C). Còn có phosphatidyl choline, phosphatidylethanolamine, phosphtidylinositol, phosphatidylserine; phosphatidicacid.

Tính vị, tác dụng: Hạt Đậu xanh có vị ngọt, hơi lạnh, tính mát; có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, trừ phiền nhiệt, bớt đau sưng, ích khí lực, điều hoà ngũ tạng, nấu ăn thì bổ mát và trừ được các bệnh nhiệt. Vỏ hạt Đậu xanh có vị ngọt, tính mát không độc, có tác dụng giải nhiệt độc làm cho mắt khỏi mờ.

Tác dụng và các sản phẩm từ cây đậu xanh

+ Hạt đậu xanh làm thực phẩm chế biến các món ăn: cháo đậu xanh, xôi đậu xanh, chè đậu xanh, sinh tố đậu xanh...

+ Hạt đậu xanh làm bánh và nhân bánh: bánh đậu xanh, nhân bánh chưng, bánh cống...

+ Giá đỗ đậu xanh, rau mầm đậu xanh làm thực phẩm bổ dưỡng.

+ Hạt đậu xanh dùng làm thuốc: chữa nóng sốt, say nắng, chữa viêm đường ruột, chữa ronan thần kinh, chữa quai bị, làm đẹp cho phụ nữ...

+ Hạt đậu xanh dùng sản xuất tinh bột và làm thức ăn chăn nuôi.

+ Lá non, ngọn của cây đậu xanh: có thể làm rau, muối dưa. Thân lá xanh dùng làm thức ăn cho chăn nuôi, còn thân lá già đem đi phơi khô, nghiền nhỏ là bột dự trữ cho gia súc.

+ Rễ cây đậu xanh: Do bộ rễ của cây đậu xanh có vi khuẩn nốt sần cố định nitơ nên thân lá còn có thể dùng làm phân xanh rất tốt.


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây

  Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây Tên khoa học:  Globodera rostochiensis Wollenweber, 1923,G.pallida Stone, 1973           Là một trong những loài tuyến trùng hại khoai tây. Nếu cây bị nhiễm làm cho cây phát triển còi cọc, lá héo có thể làm chết cây. Nhiễm ở mức nghiêm trọng dẫn đến thiệt hại năng suất củ lên đến 80%. 1. Nguồn gốc           Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây là do tuyến trung G.pallida gây nên. Loại tuyến trùng này là loài phi bản địa có nguồn gốc từ Châu Âu. Lần đầu tiên phát hiện ở miền đông Idaho trong tháng 4 năm 2006. Cho đến nay, nó được phát hiện thấy và bị hạn chế tại 17 cánh đồng bị nhiễm khuẩn đại diện cho tổng số 1.916 mẫu Anh ở Bingham và Bonneville của Idaho. Mặc dù G.pallida bị giới hạn phân bố địa lý, sự hiện diện của chúng trong đất trồng tại mỹ đã có tác động sâu rộng làm đóng cửa, hạn chế thị trường xuất khẩu, giảm giá trị đất nông nghiệp và các khó khăn kinh tế khác. 2. Triệu chứng           Triệu chứng thể hiện lá biến vàng, l

Bệnh lùn sọc đen hại lúa, ngô

  Bệnh lùn sọc đen hại lúa, ngô Tên khoa học:  SRBSDV (Southern Rice Black-Streaked Dwarf Virus)            Để hạn chế tối đa ảnh hưởng,giảm mức thiệt hại do bệnh gây ra, người dân cần thiết áp dụng các biện pháp đồng bộ phòng trừ kịp thời ngay từ đầu vụ mới có thể đảm bảo năng suất lúa, ngô. 1 Triệu chứng gây hại 1.1 Gây hại trên cây lúa - Khi bắt đầu nhiễm bệnh rễ cây vẫn phát triển bình thường, về sau rễ kém phát triển dần, ngắn và sau đó chết. - Triệu chứng điển hình để nhận biết được xác định ít nhất 2 tuần qua môi giới truyền bệnh là rầy mang virus chích hút vào cây lúa khỏe. - Cây bị bệnh thường thấp lun, lá xanh đập hơn bình thường. Lá lúa bị xoăn ở đầu lá hoặc toàn bộ lá. Gân lá ở mặt sau bị sưng lên. Khi cây còn nhỏ, gân chính trên bẹ lá cũng bị phồng sưng. - Nếu cây bị nhiễm ở giai đoạn làm đòng và khi lúa có lóng, cây nhiễm bệnh thường nảy chồi trên đối thân và mọc nhiều rễ bất định. Trên bẹ và lóng thân mọc nhiều u sáp và bọc đen. Ở giai đoạn lúa trỗ, triệu c

Cây dược liệu Dây bông xanh

  Cây Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora (Roxb. ex Rottl.) Roxb Dược liệu Dây bông xanh có vị ngọt, tính bình; có tác dụng tiêu sưng, tiêu viêm, làm lành vết thương. Vỏ rễ dùng chữa đòn ngã tổn thương, đụng giập. Lá sắc uống dùng trị đau dạ dày. Dây và lá dùng đắp ngoài trị rắn cắn, đinh nhọt.   Hình ảnh cây Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora (Roxb. ex Rottl.) Roxb., thuộc họ Dây bông xanh - Thunbergiaceae. Bộ phận dùng:  Vỏ rễ, dây và lá -  Cortex Radicis, Caulis et Folium Thunbergiae . Nơi sống và thu hái:  Cây của vùng Đông Dương, mọc hoang ở đồng bằng và vùng núi nhiều nơi khắp nước ta. Cũng được trồng làm cây cảnh. Thu hái rễ vào mùa hè thu, tách lấy vỏ và bỏ lõi gỗ. Thu hái dây và lá quanh năm, dùng tươi hay phơi khô trong râm để dùng dần. Tính vị, tác dụng:  Dây bông xanh có vị ngọt, tính bình; có tác dụng tiêu sưng, tiêu viêm, làm lành vết thương. Công dụng, chỉ định và phối hợp:  Vỏ rễ dùng chữa đòn n