Chuyển đến nội dung chính

Chính sách quyền riêng tư,

Phân trộn và Phân xanh

 Phân trộn và Phân xanh

Làm phân trộn

Phân trộn và phân xanh
Phân trộn và phân xanh

Ngoài ra, có thể chuẩn bị và bón thêm một loại phân hữu cơ khác là phân trộn mỗi năm. Đây là nhóm phân tốt, có thể xếp chồng lên nhau và cần độ già nhất định. Trong năm, chúng trải qua quá trình ủ và phân hủy với sự hỗ trợ của vi sinh vật.

Phân trộn là một loại phân bón là kết quả của việc giữ nó trong núi hoặc núi trong một thời gian phân hủy sinh học. Chúng luôn được chuẩn bị và bao gồm các thành phần trơ (than bùn, mùn cưa, lá cây, cỏ cắt, cỏ dại) và các thành phần hoạt tính sinh học (phân bón, phân chim, phân chim, giá thể, đất trồng trọt) và bắt đầu đẩy nhanh quá trình ủ phân. Không sử dụng dạng than bùn bón tinh khiết, vì vậy nó được ủ trước với các thành phần hoạt tính sinh học.

Sổ tay người làm vườn

Vườn ươm thực vật Cửa hàng sản phẩm cho túp lều mùa hè Studio Thiết kế Cảnh quan

Than bùn nguyên chất trực tiếp chỉ được sử dụng làm vật liệu phủ. Quá trình ủ phân bắt đầu với một đống vật liệu ủ trơ và hoạt tính sinh học dài 25-30 cm có sẵn cho người làm vườn. Đầu tiên, một lớp than bùn hoặc lớp đất dày 20 cm được đặt trên bề mặt của đất, trên đó đặt một lớp vật liệu có thể ủ được dày 25 cm, phủ lên trên bằng than bùn và vật liệu có thể tái phân, và chất thành đống cao 1,5 mét. 10 cm trở lên.

Thùng được làm ẩm thường xuyên, ban đầu không nén và nâng lên + 70 ° C để khử trùng phân trộn và sau đó nén sau 2-3 tuần để giảm thất thoát chất dinh dưỡng. Sau một vài tháng, đống phân sẽ được xẻng để cải thiện khả năng tiếp cận oxy vào đống nếu cần thiết và đẩy nhanh quá trình ủ phân. Phân trộn đã chuẩn bị là một khối lượng đã được phân hủy sậm màu, đồng nhất, sẵn sàng để sử dụng.

Phân trộn cũng có thể được chuẩn bị và sản xuất trước từ nhiều loại phế phẩm khác nhau như cây cối, cỏ dại, kim tiêm, mùn cưa, Swill, phân và tàn dư cây trồng sau khi thu hoạch. Nên bổ sung than bùn cho tất cả các thành phần này-phân khoáng-quặng phốt pho, phân supephotphat, amoniac 2-3% trọng lượng, có thể kết hợp các sản phẩm dạng khí ở dạng vôi-2% làm giảm độ chua và đẩy nhanh quá trình phân hủy. Phân lân hoặc phân vôi đúc sẵn sẽ có sau 2-3 tháng ủ.

Phân xanh

Phân trộn và phân xanh
Phân trộn và phân xanh

Có một nhóm phân hữu cơ khác là phân xanh hoặc phân xanh. Phân xanh là khối lượng phân xanh được gieo trồng nhằm mục đích bón phân và được gieo trồng trong đất để cải thiện các điều kiện dinh dưỡng, nước, không khí và nhiệt của đất.

Các loại đậu như lupin, vetches và đậu Hà Lan chủ yếu được sử dụng làm phân bón xanh. Bằng cách cùng tồn tại với rhizobia, chúng hấp thụ nitơ trong không khí và làm giàu thêm cho đất. Cây thường được trồng ở độ sâu 15-18 cm trong giai đoạn ra hoa và hình thành hạt đậu đầu tiên.

Về mặt hiệu quả, phân bón xanh có thể so sánh với phân bón, với năng suất cao hơn của phân xanh. Chúng được trồng độc lập và được canh tác ở cùng một nơi hoặc được trồng đặc biệt trong một khoảnh đất cố định khác với hậu quả của việc chặt bỏ để sử dụng các cục đã cắt ở các ô liền kề làm phân bón ... Trong hầu hết các trường hợp, cây họ đậu lâu năm như cây lupin được trồng cho mục đích này. Trước khi gieo hạt vào mùa xuân, bón 150-200 g / m² nitrophosphat để phân xanh tạo ra lượng phân bón lớn và toàn diện.

Liều lượng dự kiến ​​của phân bón và các loại phân hữu cơ khác thay đổi từ 8 đến 12 kg / m² tùy thuộc vào nền văn hóa, sự sẵn có của người làm vườn, đặc điểm của đất, phương pháp bón và các yếu tố khác. Liều lượng phân gia súc bằng 1/10 so với phân chuồng. Liều lượng phân trộn và phân xanh như liều lượng phân bón. Thời hạn bón phân hữu cơ là vụ xuân, chỉ bón phân xanh vào thời kỳ chín rộ, thường là vào mùa hè thời kỳ ra hoa, trước khi trồng. Độ sâu tối ưu của lượng phân bón khi đào đất là 18 cm.

Phân hữu cơ kết hợp tốt với phân khoáng và được bón cùng nhau, tức là dưới một vụ, với liều lượng khác nhau và vào những thời điểm khác nhau. Lời chúc thành công trong mùa giải mới.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây

  Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây Tên khoa học:  Globodera rostochiensis Wollenweber, 1923,G.pallida Stone, 1973           Là một trong những loài tuyến trùng hại khoai tây. Nếu cây bị nhiễm làm cho cây phát triển còi cọc, lá héo có thể làm chết cây. Nhiễm ở mức nghiêm trọng dẫn đến thiệt hại năng suất củ lên đến 80%. 1. Nguồn gốc           Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây là do tuyến trung G.pallida gây nên. Loại tuyến trùng này là loài phi bản địa có nguồn gốc từ Châu Âu. Lần đầu tiên phát hiện ở miền đông Idaho trong tháng 4 năm 2006. Cho đến nay, nó được phát hiện thấy và bị hạn chế tại 17 cánh đồng bị nhiễm khuẩn đại diện cho tổng số 1.916 mẫu Anh ở Bingham và Bonneville của Idaho. Mặc dù G.pallida bị giới hạn phân bố địa lý, sự hiện diện của chúng trong đất trồng tại mỹ đã có tác động sâu rộng làm đóng cửa, hạn chế thị trường xuất khẩu, giảm giá trị đất nông nghiệp và các khó khăn kinh tế khác. 2. Triệu chứng           Triệu chứng thể hiện lá biến vàng, l

Bệnh lùn sọc đen hại lúa, ngô

  Bệnh lùn sọc đen hại lúa, ngô Tên khoa học:  SRBSDV (Southern Rice Black-Streaked Dwarf Virus)            Để hạn chế tối đa ảnh hưởng,giảm mức thiệt hại do bệnh gây ra, người dân cần thiết áp dụng các biện pháp đồng bộ phòng trừ kịp thời ngay từ đầu vụ mới có thể đảm bảo năng suất lúa, ngô. 1 Triệu chứng gây hại 1.1 Gây hại trên cây lúa - Khi bắt đầu nhiễm bệnh rễ cây vẫn phát triển bình thường, về sau rễ kém phát triển dần, ngắn và sau đó chết. - Triệu chứng điển hình để nhận biết được xác định ít nhất 2 tuần qua môi giới truyền bệnh là rầy mang virus chích hút vào cây lúa khỏe. - Cây bị bệnh thường thấp lun, lá xanh đập hơn bình thường. Lá lúa bị xoăn ở đầu lá hoặc toàn bộ lá. Gân lá ở mặt sau bị sưng lên. Khi cây còn nhỏ, gân chính trên bẹ lá cũng bị phồng sưng. - Nếu cây bị nhiễm ở giai đoạn làm đòng và khi lúa có lóng, cây nhiễm bệnh thường nảy chồi trên đối thân và mọc nhiều rễ bất định. Trên bẹ và lóng thân mọc nhiều u sáp và bọc đen. Ở giai đoạn lúa trỗ, triệu c

Cây dược liệu Dây bông xanh

  Cây Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora (Roxb. ex Rottl.) Roxb Dược liệu Dây bông xanh có vị ngọt, tính bình; có tác dụng tiêu sưng, tiêu viêm, làm lành vết thương. Vỏ rễ dùng chữa đòn ngã tổn thương, đụng giập. Lá sắc uống dùng trị đau dạ dày. Dây và lá dùng đắp ngoài trị rắn cắn, đinh nhọt.   Hình ảnh cây Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora (Roxb. ex Rottl.) Roxb., thuộc họ Dây bông xanh - Thunbergiaceae. Bộ phận dùng:  Vỏ rễ, dây và lá -  Cortex Radicis, Caulis et Folium Thunbergiae . Nơi sống và thu hái:  Cây của vùng Đông Dương, mọc hoang ở đồng bằng và vùng núi nhiều nơi khắp nước ta. Cũng được trồng làm cây cảnh. Thu hái rễ vào mùa hè thu, tách lấy vỏ và bỏ lõi gỗ. Thu hái dây và lá quanh năm, dùng tươi hay phơi khô trong râm để dùng dần. Tính vị, tác dụng:  Dây bông xanh có vị ngọt, tính bình; có tác dụng tiêu sưng, tiêu viêm, làm lành vết thương. Công dụng, chỉ định và phối hợp:  Vỏ rễ dùng chữa đòn n