Chuyển đến nội dung chính

Hoa sen trong ẩm thực

  Hoa sen được sử dụng rộng rãi trong ẩm thực của nhiều quốc gia châu Á. Các phần khác nhau của hoa sen, bao gồm hạt sen, cánh sen và cuống sen, đều được sử dụng để tạo ra các món ăn ngon và độc đáo. Dưới đây là một số ví dụ về cách hoa sen được sử dụng trong ẩm thực: Chè sen: Chè sen là một món tráng miệng phổ biến trong nhiều nền ẩm thực châu Á. Nó được làm từ hạt sen và nước cốt dừa, thường được thêm vào đường, sữa đặc hoặc các thành phần khác để tạo ra một món chè ngọt mát. Salad sen: Hạt sen cũng có thể được sử dụng để làm một món salad tươi ngon. Hạt sen thường được chế biến tươi hoặc sấy khô và được kết hợp với các loại rau, rau sống, hạt, gia vị và nước sốt để tạo ra một món salad phong cách độc đáo. Món chiên: Hạt sen cũng có thể được chiên và làm món ăn giòn rụm. Chúng có thể được chiên với một lớp bột hoặc chiên chung với các thành phần khác như tôm, thịt hoặc rau củ. Món bánh: Hạt sen cũng thường được sử dụng làm thành phần trong các loại bánh như bánh sen, bánh trôi, bánh

Phân bón xanh cho cây trồng

 Phân bón xanh cho cây trồng 


Phân bón xanh đã được biết đến nhiều ở Hy Lạp cổ đại, Đế chế La Mã và Ai Cập vào thời các Pharaoh. Hiện nay việc trồng trọt và canh tác cá hồi xanh cho các loại cây rau, quả và quả mọng đã cho năng suất cây trồng tốt. Mỗi phần đất trống của biệt thự mùa hè nên được sử dụng bởi phân xanh. Chúng giúp trang trí cuộc sống và cải thiện văn hóa nông nghiệp. Ngoài ra, phân xanh giúp người làm vườn chống lại cỏ dại, bệnh tật và sâu bệnh hại cây trồng.

Phân bón xanh - Cây tươi được trồng để làm giàu chất hữu cơ và nitơ cho đất. Kỹ thuật này được gọi là phân xanh và là một loại cây trồng được trồng bằng phân bón - phân xanh .

Các loại đậu (Lupinus, Seradera, Sweet Clover, Winterbetch, Astragalus, Rank, Onobrychis) chủ yếu được trồng như các sản phẩm phụ. Trong một số trường hợp, các cây không thuộc họ đậu (như mù tạt, kiều mạch, lúa mạch đen mùa đông, yến mạch, lúa mạch, hạt cải dầu mùa xuân và mùa đông) hoặc hỗn hợp của chúng cũng được sử dụng để bón cho cây xanh. Tuy nhiên, nitơ trong đất chỉ tích lũy một lượng đáng kể trong quá trình canh tác và trồng các loại cây họ đậu.

Phân bón xanh, cũng giống như các loại phân hữu cơ khác, có tác động tích cực nhiều mặt đến tính chất của đất và năng suất cây trồng. Đồng thời, nó có một số tính năng cụ thể. Phân xanh làm giàu chất hữu cơ và nitơ cho đất. Tùy theo điều kiện sử dụng, có thể cố định 3,5-4,5 kg chất hữu cơ chứa 15-20 g đạm cho 1 m² đất trồng bị bệnh nấm rễ (khi gieo hạt cây họ đậu phân xanh). Khi bón phân xanh, các chất dinh dưỡng khác cũng tích tụ trong lớp đất mặt. Chúng được chiết xuất bởi rễ phân xanh không chỉ từ các tầng có thể trồng trọt mà còn từ chân trời sâu hơn của đất. Có một loại bơm các phần tử tro từ lớp đất dưới lên lớp trên.

Khối lượng phân xanh có chứa lượng nitơ, phốt pho và kali tương đương với lượng phân bón. Khi cày bón phân xanh, lượng đạm tích lũy ở đó bị loại bỏ hoàn toàn, tuy nhiên rất khó tránh khỏi sự thất thoát đó trong quá trình bảo quản, vận chuyển, hút phân vào đất ... Nó phân hủy trong đất nhanh hơn nhiều so với các loại phân hữu cơ khác, do đó cung cấp chất dinh dưỡng tốt hơn cho cây trồng.

Phân xanh cũng giống như các loại phân hữu cơ khác trồng trong đất, làm giảm phần nào độ chua của chúng, giảm độ linh động của nhôm, tăng khả năng đệm, khả năng hấp thụ, khả năng giữ ẩm, tính thẩm thấu và cấu trúc của đất được cải thiện. Bởi vì nó là một thực phẩm ngon ngọt và khối lượng giàu năng lượng, nó cải thiện hoạt động quan trọng của vi sinh vật đất. Trong quá trình phân hủy của phân bón xanh trồng trọt, đất và không khí bề mặt được tập trung đủ axit cacbonic để cải thiện dinh dưỡng không khí cho cây trồng. Do các vi sinh vật trong đất, khả năng các chất dinh dưỡng thấm xuống các lớp bên dưới bị giảm đáng kể.

Phân xanh là một biện pháp quan trọng để tăng độ phì nhiêu ở các loại đất và độ dốc được canh tác kém (đặc biệt là đất cát pha và cát pha). Kết hợp với phân khoáng, bạn có thể giảm chi phí kinh tế liên quan đến việc mua phân hữu cơ đắt tiền hơn. Phân xanh có tác dụng và di chứng mạnh. Lupin trồng dưới khoai tây làm tăng năng suất của các vụ tiếp theo 0,1-0,15 kg trên m² (tăng 20-30%) trong vòng 4-5 năm.

Có các loại cây trồng phân xanh độc lập, trung gian, nén, tùy thuộc vào cách trồng phân xanh ở dạng nguyên chất hoặc với các loại cây trồng khác.

Đối với tự gieo sạ, tỷ lệ phụ chiếm ruộng một vụ hoặc ít hơn một chút. Ví dụ như cây Lupin lâu năm, trồng một chỗ trong 5 - 6 năm để tăng độ phì nhiêu cho đất cát, thuần hóa đất trước khi trồng cây ăn quả và cây bụi để chống xói mòn đất trên các sườn dốc. Các cặp hoặc lúa mạch đen mùa đông và hạt cải dầu mùa đông lupinus gieo hạt vào mùa xuân để trồng dâu tây vào tháng 8 hàng năm (trong trường hợp này chúng có nhiều và không nở hoa).

Phân xanh thường được tìm thấy trên đồng ruộng trong một thời gian tương đối ngắn, từ khi thu hoạch một vụ đến khi gieo vụ khác. Chúng được gọi là trung gian hoặc trung gian. Trong những trường hợp đó, cây vụ đông thích hợp để tận dụng các phần của mùa thu và mùa xuân để sinh trưởng trước khi trồng rau màu. Ngăn chất dinh dưỡng thấm ra khỏi đất khi mưa lớn vào mùa thu và mùa xuân. Các loại cây có gốc rạ để bón phân xanh có thể được gieo sau khi thu hoạch bắp cải sớm và khoai tây sớm, rau diếp, tỏi tây, và cũng có thể được dọn ra khỏi lối đi.

Cây phân xanh nén là một phương pháp đồng canh tác các loại cây trồng chính và các khu vực cụ thể của phân xanh. Ví dụ, đồng trồng hỗn hợp khoai tây và đậu, cà rốt và đậu rộng, bón phân xanh vào các đoạn của các loại cây khác nhau (lupin và cây ăn quả, lúa mạch và cà rốt). Những kỹ thuật này giúp thu được một lượng phân xanh đáng kể, ngay cả trong quá trình sinh trưởng và phát triển của các cây trồng chính (để bón cho các cánh đồng liền kề).

Gieo sạ nén bao gồm việc gieo hạt phân xanh và cây trồng chính, gần như loại bỏ hoàn toàn sự áp chế lẫn nhau trong quá trình sinh trưởng và không làm giảm năng suất của cây trồng chính. Hai loại cây trồng này có khả năng sử dụng chất dinh dưỡng và nước từ các tầng đất khác nhau (độ sâu xâm nhập của bộ rễ khác nhau). Thông thường, đó là một nền văn hóa hậu trường, xen kẽ giữa phân xanh và các dải có chiều rộng khác nhau mà cây trồng chính chiếm giữ. Khối lượng xanh của phân xanh được sử dụng để bón cho các dải lân cận hoặc các khu vực khác.

Một ví dụ về văn hóa hậu trường là trồng các loại giá phụ trong các lối đi trong vườn. Các nền văn hóa hậu trường Siderate cũng được sử dụng trên các sườn dốc (sọc ngang qua sườn núi) để chống xói mòn đất (Lupin lâu năm, tảo, cỏ linh lăng, cỏ ba lá, v.v.). Đôi khi, các trang web được gieo theo tỷ lệ phụ ở khắp mọi nơi, và sau đó là hậu trường. Ví dụ, khi canh tác trên đất cát, diện tích này hoàn toàn bị chiếm dụng bởi cây lupin lâu năm trong vài năm đầu, sau đó các dải đất canh tác được trồng xen kẽ với các dải đất không trồng trọt. Trong vài năm tới, các dải được canh tác sẽ được sử dụng cho cây lương thực và được bón phân bằng hom cây lupin từ các dải còn lại.

Có nhiều cách khác nhau để sử dụng khối lượng phân xanh đã trồng. Đối với phân bón xanh, chỉ sử dụng toàn bộ cây (cả trên mặt đất và rễ) hoặc một phần cụ thể của nó. Dựa trên điều này, phân bón xanh có ba dạng chính: phân bón toàn phần, phân cắt nhỏ và phân bón xanh sau đó.

Phân bón xanh hoàn toàn được gọi là khi tất cả các khối lượng thực vật đã trưởng thành được gieo trồng.

Phân xanh được gọi là phân xanh cắt chỉ khi phân xanh đã xay nhuyễn được nhúng vào đất, đem trồng ở nơi khác, cắt rồi chở đi từ đó. Một ví dụ về phân bón làm cỏ xanh là việc trồng cây lupin lâu năm trong trại sản xuất giống và bón phân khối lượng cỏ cho các mảnh đất liền kề.

Phân xanh và những vón cục sau khi thu hoạch từ hành lang trồng cây ăn quả được sử dụng để bón cho thân cây và rau màu. Việc thu hoạch phân xanh cũng được sử dụng để chuẩn bị các loại phân trộn khác nhau. Ngoài khối lượng xanh của phân xanh, loại phân trộn đó bao gồm phân bón, bùn sông ao, rơm rạ, thân cây cỏ dại, phân,… (tất cả những vật liệu này đều được ủ thành lớp và tăng lên).

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây

  Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây Tên khoa học:  Globodera rostochiensis Wollenweber, 1923,G.pallida Stone, 1973           Là một trong những loài tuyến trùng hại khoai tây. Nếu cây bị nhiễm làm cho cây phát triển còi cọc, lá héo có thể làm chết cây. Nhiễm ở mức nghiêm trọng dẫn đến thiệt hại năng suất củ lên đến 80%. 1. Nguồn gốc           Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây là do tuyến trung G.pallida gây nên. Loại tuyến trùng này là loài phi bản địa có nguồn gốc từ Châu Âu. Lần đầu tiên phát hiện ở miền đông Idaho trong tháng 4 năm 2006. Cho đến nay, nó được phát hiện thấy và bị hạn chế tại 17 cánh đồng bị nhiễm khuẩn đại diện cho tổng số 1.916 mẫu Anh ở Bingham và Bonneville của Idaho. Mặc dù G.pallida bị giới hạn phân bố địa lý, sự hiện diện của chúng trong đất trồng tại mỹ đã có tác động sâu rộng làm đóng cửa, hạn chế thị trường xuất khẩu, giảm giá trị đất nông nghiệp và các khó khăn kinh tế khác. 2. Triệu chứng           Triệu chứng thể hiện lá biến vàng, l

Bệnh lùn sọc đen hại lúa, ngô

  Bệnh lùn sọc đen hại lúa, ngô Tên khoa học:  SRBSDV (Southern Rice Black-Streaked Dwarf Virus)            Để hạn chế tối đa ảnh hưởng,giảm mức thiệt hại do bệnh gây ra, người dân cần thiết áp dụng các biện pháp đồng bộ phòng trừ kịp thời ngay từ đầu vụ mới có thể đảm bảo năng suất lúa, ngô. 1 Triệu chứng gây hại 1.1 Gây hại trên cây lúa - Khi bắt đầu nhiễm bệnh rễ cây vẫn phát triển bình thường, về sau rễ kém phát triển dần, ngắn và sau đó chết. - Triệu chứng điển hình để nhận biết được xác định ít nhất 2 tuần qua môi giới truyền bệnh là rầy mang virus chích hút vào cây lúa khỏe. - Cây bị bệnh thường thấp lun, lá xanh đập hơn bình thường. Lá lúa bị xoăn ở đầu lá hoặc toàn bộ lá. Gân lá ở mặt sau bị sưng lên. Khi cây còn nhỏ, gân chính trên bẹ lá cũng bị phồng sưng. - Nếu cây bị nhiễm ở giai đoạn làm đòng và khi lúa có lóng, cây nhiễm bệnh thường nảy chồi trên đối thân và mọc nhiều rễ bất định. Trên bẹ và lóng thân mọc nhiều u sáp và bọc đen. Ở giai đoạn lúa trỗ, triệu c

Cây dược liệu Dây bông xanh

  Cây Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora (Roxb. ex Rottl.) Roxb Dược liệu Dây bông xanh có vị ngọt, tính bình; có tác dụng tiêu sưng, tiêu viêm, làm lành vết thương. Vỏ rễ dùng chữa đòn ngã tổn thương, đụng giập. Lá sắc uống dùng trị đau dạ dày. Dây và lá dùng đắp ngoài trị rắn cắn, đinh nhọt.   Hình ảnh cây Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora (Roxb. ex Rottl.) Roxb., thuộc họ Dây bông xanh - Thunbergiaceae. Bộ phận dùng:  Vỏ rễ, dây và lá -  Cortex Radicis, Caulis et Folium Thunbergiae . Nơi sống và thu hái:  Cây của vùng Đông Dương, mọc hoang ở đồng bằng và vùng núi nhiều nơi khắp nước ta. Cũng được trồng làm cây cảnh. Thu hái rễ vào mùa hè thu, tách lấy vỏ và bỏ lõi gỗ. Thu hái dây và lá quanh năm, dùng tươi hay phơi khô trong râm để dùng dần. Tính vị, tác dụng:  Dây bông xanh có vị ngọt, tính bình; có tác dụng tiêu sưng, tiêu viêm, làm lành vết thương. Công dụng, chỉ định và phối hợp:  Vỏ rễ dùng chữa đòn n