Chuyển đến nội dung chính

Chính sách quyền riêng tư,

Chất dinh dưỡng khoáng thực vật

Chất dinh dưỡng khoáng thực vật

Chức năng chính của khoáng chất

Weymouth cột sống

Dinh dưỡng khoáng rất quan trọng đối với sinh lý thực vật. Điều này là do việc cung cấp đủ các nguyên tố khoáng chỉ cần thiết cho sự sinh trưởng và phát triển bình thường của thực vật. Ngoài tình cảm và sự chăm sóc, thực vật đòi hỏi một tập hợp toàn bộ các nguyên tố khoáng (10 hoặc nhiều hơn) để làm nguyên liệu cho các quá trình khác nhau của oxy, nước, carbon dioxide, nitơ và sự tồn tại của các sinh vật sống.

Các chất dinh dưỡng khoáng thực vật có nhiều chức năng quan trọng. Chúng có thể hoạt động như thành phần cấu trúc của mô thực vật, chất xúc tác cho các phản ứng khác nhau, bộ điều chỉnh áp suất thẩm thấu, thành phần hệ thống đệm và chất điều chỉnh tính thấm màng.

Hướng dẫn của người làm vườn

Vườn ươm cây Một kho chứa hàng hóa cho các ngôi nhà nông thôn mùa hè Studio thiết kế cảnh quan

Ví dụ về vai trò của các chất khoáng như là thành phần của mô thực vật là canxi trong thành tế bào, magiê trong phân tử diệp lục, lưu huỳnh trong một số protein nhất định và phốt pho trong phospholipid và nucleoprotein. Nitơ không phải là một thành phần khoáng chất, nhưng nó thường được bao gồm trong số lượng, vì vậy hãy cẩn thận một lần nữa là một thành phần quan trọng của protein.

Ví dụ, một số nguyên tố như sắt, đồng và kẽm cần thiết với lượng vi lượng, nhưng chúng cũng cần với lượng nhỏ vì chúng là một phần của nhóm chân tay giả hoặc coenzyme của một hệ thống enzym cụ thể. Có nhiều nguyên tố (bo, đồng, kẽm) độc hại cho cây trồng ở nồng độ cao. Độc tính của chúng rất có thể liên quan đến các tác động xấu đến hệ thống enzym của sinh vật thực vật.

Tầm quan trọng của việc cung cấp đủ dinh dưỡng khoáng cho cây trồng từ lâu đã được công nhận trong nghề làm vườn và là một chỉ số cho thấy sự phát triển tốt và do đó cho năng suất tốt và ổn định.

Các yếu tố quan trọng

Nhiều nghiên cứu khác nhau đã chỉ ra rằng hơn một nửa số nguyên tố tuần hoàn của Mendeleev có trong thực vật và bất kỳ nguyên tố nào trong đất cũng có thể được rễ cây hấp thụ. Ví dụ, hơn 27 nguyên tố (!) Được tìm thấy trong một số mẫu gỗ thông Weymouth. Người ta tin rằng không phải tất cả các yếu tố có sẵn trong thực vật đều cần thiết cho chúng.

Ví dụ, các nguyên tố như bạch kim, thiếc, bạc, nhôm, silicon và natri được coi là không cần thiết. Đối với các nguyên tố khoáng cần thiết, thông thường chúng ta sẽ ăn những nguyên tố mà cây trồng không thể hoàn thành vòng đời của nó và đó là một phần của các phân tử của các thành phần cây trồng cần thiết.

Chức năng chính của chất dinh dưỡng khoáng

Cây táo nở

Vì vòng đời của cây thân thảo có thể được nghiên cứu trong thời gian ngắn nên hầu hết các nghiên cứu về vai trò của các nguyên tố khác nhau đã được thực hiện đối với cây thân thảo. Ngoài ra, một số thí nghiệm đã được tiến hành trên cây ăn quả và cả cây non rừng. Kết quả của những nghiên cứu này cho thấy rằng các yếu tố khác nhau của cả cây thân thảo và cây thân gỗ thực hiện cùng một chức năng.

nitơ. Vai trò của nitơ được biết đến nhiều như là chất xây dựng nên protein, là thành phần của các axit amin. Ngoài ra, nitơ còn được tìm thấy trong nhiều hợp chất khác như nhân purin, ancaloit, enzym, chất điều hòa sinh trưởng, chất diệp lục, thậm chí cả màng tế bào. Sự thiếu hụt nitơ dần dần làm rối loạn quá trình tổng hợp lượng diệp lục bình thường, dẫn đến sự thiếu hụt cực độ của nó, gây ra hiện tượng úa lá ở cả lá già và non.

photpho. Nguyên tố này là thành phần thiết yếu của protein nhân và phospholipid. Phốt pho là không thể thay thế được do các liên kết năng lượng vĩ mô giữa các nhóm phốt phát hoạt động như những chất trung gian chính trong quá trình chuyển giao năng lượng của thực vật. Phốt pho được tìm thấy ở cả hai dạng vô cơ và hữu cơ. Anh ta di chuyển dễ dàng qua nhà máy, rõ ràng là ở cả hai dạng. Thiếu lân chủ yếu ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây non khi chưa có triệu chứng bệnh.

kali. Dạng hữu cơ của kali chưa được khoa học biết đến, nhưng thực vật rõ ràng cần đủ lượng kali cho hoạt động của enzym. Một sự thật thú vị là các tế bào thực vật phân biệt giữa kali và natri. Hơn nữa, natri không thể được thay thế hoàn toàn bằng kali. Người ta thường chấp nhận rằng kali đóng vai trò như một chất thẩm thấu trong việc đóng và mở khí khổng. Cần lưu ý rằng kali trong thực vật có tính di động cao, và thiếu kali sẽ cản trở sự di chuyển carbohydrate và chuyển hóa nitơ, nhưng tác động này không trực tiếp mà là gián tiếp.

lưu huỳnh. Nguyên tố này là thành phần của cystine, cysteine, các axit amin khác, biotin, thiamine, coenzyme A, và nhiều hợp chất khác thuộc nhóm sulfhydryl. So với nitơ, phốt pho và kali, lưu huỳnh ít di động hơn. Sự thiếu hụt lưu huỳnh gây ra sự gián đoạn của quá trình sinh tổng hợp protein và chất diệp lục, thường dẫn đến sự tích tụ các axit amin.

canxi. Canxi được tìm thấy với một lượng đáng kể trên thành tế bào, có ở dạng canxi pectinat, và có nhiều khả năng ảnh hưởng đến độ đàn hồi của thành tế bào. Ngoài ra, nó còn tham gia vào quá trình chuyển hóa nitơ bằng cách kích hoạt một số enzym, bao gồm cả amylase. Canxi có độ linh động tương đối thấp. Sự thiếu hụt canxi thể hiện ở vùng mô phân sinh của ngọn rễ, lượng dư thừa tích tụ trong mô lá và gỗ dưới dạng tinh thể canxi oxalat.

magiê. Nó là một phần của phân tử diệp lục, tham gia vào công việc của nhiều hệ thống enzym, tham gia vào việc duy trì tính toàn vẹn của ribosome, và di chuyển dễ dàng. Da thường bị trắng khi thiếu magiê.

sắt. Phần lớn sắt nằm trong lục lạp, nơi nó tham gia vào quá trình tổng hợp protein nhựa và cũng được tìm thấy trong nhiều enzym hô hấp như peroxidase, catalase, ferredoxin và cytochrome oxidase. Vì sắt tương đối bất động, nên nó góp phần vào sự phát triển của tình trạng thiếu sắt.

mangan. Chức năng chính của nó, một thành phần thiết yếu của quá trình tổng hợp chất diệp lục, là kích hoạt hệ thống enzym, có thể ảnh hưởng đến sự sẵn có của sắt. Mangan tương đối bất động và độc hại, và nồng độ mangan trong lá của một số cây trồng thường đạt đến mức độc hại. Sự thiếu hụt mangan thường gây ra biến dạng lá và hình thành các đốm xanh hoặc đốm chết.

kẽm. Nguyên tố này có trong thành phần của anhydrase cacbonic. Kẽm có độc tính cao, ngay cả ở nồng độ tương đối thấp, và sự thiếu hụt của nó dẫn đến biến dạng lá.

đồng. Đồng là thành phần của một số enzym, bao gồm ascorbinotoxidase và tyrosinase. Thực vật thường yêu cầu một lượng đồng rất nhỏ, nồng độ cao của đồng sẽ gây độc, và việc thiếu nó sẽ làm cho ngọn cây bị khô.

Bo. Giống như đồng, thực vật cần một lượng rất nhỏ các nguyên tố. Có lẽ bo cần thiết cho sự di chuyển của đường, và sự thiếu hụt của nó gây ra thiệt hại nghiêm trọng và làm chết các mô phân sinh đỉnh.

molipđen. Nguyên tố này cần thiết cho thực vật ở nồng độ rất nhỏ và là một phần của hệ thống enzym nitrat reductase và có thể thực hiện các chức năng khác. Sự thiếu hụt là rất hiếm, nhưng nếu có, sự cố định nitơ của hắc mai biển có thể giảm bớt.

clo. Chức năng của nó đã được nghiên cứu kém; rõ ràng là nó liên quan đến sự phân hủy nước trong quá trình quang hợp.

Các triệu chứng thiếu khoáng chất

Sự thiếu hụt chất khoáng gây ra những thay đổi trong các quá trình sinh hóa và sinh lý, từ đó dẫn đến những thay đổi về hình thái. Sự kìm hãm sự phát triển của chồi thường được quan sát thấy do sự thiếu hụt. Hạn chế nổi bật nhất của chúng là vàng lá, nguyên nhân là do giảm sinh tổng hợp diệp lục. Quan sát cho thấy bộ phận dễ bị tổn thương nhất của cây là lá: lá bị giảm kích thước, hình dạng, cấu trúc, nhạt màu và có những vùng chết giữa các ngọn, ngọn hoặc các gân chính. bó hoặc thậm chí hoa thị.

Chúng ta cần đưa ra những ví dụ về sự thiếu hụt các yếu tố khác nhau trong nhiều nền văn hóa phổ biến nhất.

Thiếu nitơ chủ yếu ảnh hưởng đến kích thước và màu sắc của lá. Ở chúng, hàm lượng diệp lục giảm, mất màu xanh đậm và lá chuyển sang màu xanh nhạt, da cam, đỏ hoặc tím. Các cuống lá và các đường gân của chúng có màu hơi đỏ. Đồng thời, kích thước phiến lá cũng giảm. Góc nghiêng đối với chồi của cuống lá trở thành một góc nhọn. Hiện tượng rụng lá sớm, mầm chậm phát triển, đồng thời số lượng hoa và quả giảm mạnh.

Các chồi chuyển sang màu nâu đỏ và quả nhỏ và có màu sáng. Ngoài ra, cần nhắc đến dâu tây thiếu nitơ, làm suy yếu quá trình hình thành râu, lá già chuyển sang màu đỏ và vàng sớm. Tuy nhiên, sự dư thừa nitơ cũng ảnh hưởng xấu đến cây trồng, gây ra hiện tượng lá to quá mức, màu xanh đậm bão hòa, và ngược lại, màu sắc quả yếu, bong tróc cơ quan sớm và bảo quản không đầy đủ. Cây chỉ thị cho sự thiếu hụt nitơ là cây táo.


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Hướng dẫn trồng và chăm sóc mướp hương (Luffa Plant)

  Sơ lược về cây mướp Mướp hương (  Luffa aegyptiaca)  là một loại bầu lớn, thời gian phát triển lâu hơn nhiều so với các  loại bầu  khác  , khoảng 90 đến 120 ngày.  Và một khi quả đã đạt đến kích thước trưởng thành, bạn cần tính toán trong vài tuần để nó phát triển các sợi bên trong dai và khô trên cây nho trước khi bạn có thể thu hoạch.  Đó là tổng số 150 đến 200 ngày ấm áp, không có sương giá. Điều bạn có thể chưa biết về mướp là khi còn non và mềm, mướp là loại rau ăn được trong họ dưa leo, có thể ăn sống hoặc nấu chín.  Tuy nhiên, trái cây phát triển quá nhanh, khoảng một inch rưỡi mỗi ngày, nên rất khó để thu hoạch đúng thời gian, vì vậy tốt nhất bạn nên trồng mướp để lấy bọt biển và để chúng phát triển dài khoảng hai feet. Bởi vì dây leo bằng lăng có thể đạt chiều dài lên đến 30 feet(9m), nên trồng chúng trên giàn là tốt nhất, và không chỉ vì lý do không gian.  Mướp được trồng trên mặt đất có xu hướng cong lên, và giữ cho dây leo và quả trên mặt đất và khô sẽ giảm nguy cơ bị bện

Cách trồng và chăm sóc bèo cái (Water Lettuce)

  Trồng và chăm sóc bèo cái Như tên gọi của nó, bèo cái là một loại thực vật  nổi trong  ao  với những chiếc lá hình hoa thị  giống như đầu của cây rau diếp.  Mỗi lá đều có gân sâu và các gân song song, mép hình vỏ sò, không có thân đáng kể.  Mặc dù không sặc sỡ, nhưng cây  bèo cái  lại tạo ra những bông hoa nhỏ màu trắng hoặc xanh nhạt ẩn trong những tán lá.  Nó nở hoa từ cuối mùa hè đến cuối mùa thu. Bèo cái  có thể được sử dụng trong vườn nước, ao hồ, hoặc các thùng chứa cả  trong nhà  và ngoài trời.  Tán lá của loài cây này chỉ cao khoảng 6 inch 12cm, nhưng hệ thống rễ dày đặc của nó dưới nước có thể sâu tới 20 inch 40cm.  Nó là một loài sinh trưởng rất nhanh sau khi trưởng thành và được coi là một loài thực vật xâm lấn  ở một số khu vực nhất định.  Chăm sóc  Bèo cái   Để thêm  Bèo cái    vào ao hoặc vườn nước, chỉ cần rải loại cây nổi này trên mặt nước vào mùa xuân.  Tốt nhất, hãy chọn chỗ không có dòng chảy, vì những cây này không phát triển tốt khi bị đẩy qua mặt nước.  Nếu có d

Cây phát tài và ảnh hưởng đến chất lượng không khí.

  Cây phát tài có thể ảnh hưởng đến chất lượng không khí theo một số cách sau: Tạo oxi: Tất cả các loại cây, bao gồm cả cây phát tài, thực hiện quá trình quang hợp để sản xuất oxi trong quá trình hô hấp. Qua quá trình này, cây phát tài liệu giải phóng oxi vào không khí xung quanh, giúp cải thiện chất lượng không khí và cung cấp một nguồn oxi tươi mát. Hấp thụ các chất gây ô nhiễm: Cây phát tài có khả năng hấp thụ một số chất gây ô nhiễm như khí thải oxit, khí amoniac và một số chất hữu cơ trong không khí. Nhờ khả năng hấp thụ này, cây phát tài giúp làm sạch không khí xung quanh và làm giảm mức độ ô nhiễm. Làm giảm nhiệt độ: Cây phát tài tạo bóng mát và hấp thụ nhiệt từ ánh nắng mặt trời. Nhờ đó, cây phát tài giúp giảm nhiệt độ xung quanh và làm mát môi trường. Điều này có thể giúp cải thiện chất lượng không khí và tạo ra môi trường sống thoải mái hơn. Giảm chất lượng không khí bên trong: Cây phát tài có khả năng hấp thụ một số chất gây ô nhiễm như formaldehyde, benzen và các chất hữu c