Chuyển đến nội dung chính

Câu chuyện về vải thiều

  Câu chuyện về vải thiều bắt đầu từ lịch sử phát triển của ngành trồng cây này và những câu chuyện thú vị liên quan đến nó. Dưới đây là một tóm tắt về câu chuyện và lịch sử của vải thiều: Xuất xứ và lịch sử: Vải thiều là loại cây ăn quả có nguồn gốc từ Trung Quốc, được trồng từ hàng ngàn năm trước đây. Theo truyền thuyết, vải thiều đã được tìm thấy và trồng lần đầu tiên tại vùng Thiều Châu, Trung Quốc. Từ đó, nó đã lan rộng sang các khu vực khác trên thế giới, bao gồm Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc và nhiều quốc gia khác. Quan trọng với khu vực Vải Thiều Bắc Giang: Tỉnh Bắc Giang ở Việt Nam đã trở thành nơi nổi tiếng với trồng vải thiều. Vải thiều Bắc Giang đã được công nhận là một trong những thương hiệu nổi tiếng của Việt Nam và có xuất khẩu sang nhiều quốc gia trên thế giới. Câu chuyện về sự quan trọng của vải thiều trong văn hóa địa phương: Vải thiều không chỉ là một loại cây trồng phổ biến, mà còn trở thành một biểu tượng văn hóa và kinh tế đặc trưng của một số khu vực. Ví dụ, ở Bắ

Các loại và cách sử dụng phân hữu cơ

 Các loại và cách sử dụng phân hữu cơ

Phân bón hữu cơ
Phân bón hữu cơ

Phân trộn thường được chuẩn bị công nghiệp ở các địa điểm đặc biệt và cũng có thể được mua cùng với phân bón và phân gia cầm.

Đây có thể là phân ủ than bùn từ phân bón hoặc phân ủ than bùn từ phân chim. Chúng thường có mùi amoniac nồng nặc, điều này cho thấy chất lượng phân trộn cao, nhưng đây cũng là nhược điểm của chúng - mùi dai dẳng gây ra một số bất tiện cho người làm vườn và hàng xóm. Vì vậy, phân trộn như vậy không cần phải được lưu trữ. Cho ngay vào đất và lấp rãnh sâu 18 cm để khử mùi hôi. Amoniac được đất hấp thụ làm tăng hiệu quả bón phân.

Hướng dẫn của người làm vườn

Vườn ươm cây Một kho chứa hàng hóa cho các ngôi nhà nông thôn mùa hè Studio thiết kế cảnh quan

Các ngôi nhà ở nông thôn có thể sử dụng than bùn sau thu hoạch và chất thải thực vật, hoặc cỏ dại sau khi cắt để chuẩn bị phân trộn đúc sẵn.

Đây là những loại phân hữu cơ chính và phổ biến luôn sẵn có cho những người làm vườn được sử dụng rộng rãi để cải thiện độ phì nhiêu của đất. Loại phân bón này không thể thay thế bằng các loại phân bón thời thượng khác.

Trong canh tác biệt thự mùa hè, phân hữu cơ đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong việc tăng độ phì nhiêu cho đất. Các đặc tính tích cực của phân hữu cơ rất đa dạng và phải được phát huy hết tác dụng cho sự phát triển của nông nghiệp ngoại thành. Chúng là nguồn cung cấp carbon dioxide để cung cấp dinh dưỡng không khí cho thực vật; đây là ưu điểm chính của chúng so với tất cả các loại phân bón khác. Chúng có tác dụng nhẹ đối với đất và phân hủy từ từ và giải phóng các thành phần dinh dưỡng khoáng của cây, do đó chúng không làm tăng mạnh nồng độ của dung dịch đất.

Do đó, liều lượng phân hữu cơ thay đổi trong một phạm vi rất rộng từ 5-20 kg / m² trở lên, khó làm đất bị “hư hại” hoặc quá liều lượng. Một tấn phân trâu bò khô chứa khoảng 20 kg nitơ (N), 8-10 kg phốt pho (tính theo P 2 O 5 ), 24-28 kg kali (K 2 O) và 28 kg canxi (28 ). kg) được bao gồm. CaO), 6 kg magiê (MgO), 4 kg lưu huỳnh (SO 3 ), 20-40 g bo (B), 200-400 g mangan (MnO), 20-30 g đồng (Cu), 125-200 g kẽm (Zn), 2-3 g coban (Co) và 2-2,5 g molypden (Mo). Phân gia cầm trung bình cô đặc gấp 10 lần phân chuồng.

Phân hữu cơ, với liều lượng tối ưu 10-12 kg / m2, có tác dụng lâu dài và để lại di chứng trên đất khoảng 4-5 năm. Liều càng thấp, chúng càng kém hiệu quả. Đây là những nguồn năng lượng có lợi cho vi sinh vật đất, vì bản thân vi sinh vật không thể hấp thụ năng lượng của mặt trời như thực vật. Họ chỉ có thể sử dụng năng lượng hóa học hữu cơ của phân bón cho cuộc sống của họ.

Các vi sinh vật này làm giàu mùn và axit fulvic cho đất, tăng cường tính chất hấp thụ của đất, do đó tạo ra phức hợp đất giàu khả năng hấp thụ với khả năng ngăn chặn các chất dinh dưỡng bị rửa trôi cao hơn. Chúng cải thiện đáng kể các đặc tính vật lý của đất, và sau khi bón phân hữu cơ, đất trở nên đặc biệt dễ trồng bằng tay.

Phân hữu cơ ngày càng có tầm quan trọng đối với đất cỏ podzol với độ mùn thấp và canh tác kém. Phân hữu cơ không chỉ đóng vai trò là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng cho rễ cây và không khí, mà còn là một phương tiện quan trọng để cải thiện đặc tính thuốc trừ sâu của đất. Khả năng hấp thụ nhôm, sắt và mangan và độ bão hòa của đất do bazơ (Ca, Mg, K) tăng lên, độ chua của nó giảm nhẹ, độ linh động của đất giảm (tính độc giảm), và khả năng đệm của đất được cải thiện.

Đất nặng kém kết dính, dễ canh tác, có nhiều nước hơn và ít chất dinh dưỡng bị mất (rửa trôi) từ đất như vậy khi mưa lớn. Đây đều là những đặc tính tích cực của phân hữu cơ.

Tuy nhiên, phân hữu cơ có những mặt hạn chế bên cạnh những đặc tính tích cực nêu trên. Thứ nhất, tỷ lệ các chất dinh dưỡng trong chúng thường không đáp ứng được yêu cầu của cây trồng. Phân hữu cơ là chất thải của vật nuôi, và động vật đã lấy các yếu tố cần thiết cho sự phát triển từ thức ăn của chúng. Do đó, phân hữu cơ kém dinh dưỡng hơn so với thức ăn chăn nuôi ban đầu.

Thứ hai, các đặc tính tiêu cực của chúng là sự chậm chạp trong hoạt động của chúng, việc giải phóng các chất dinh dưỡng cho cây trồng sau đó luôn bị trì hoãn trong việc “cung cấp” cho cây trồng với lượng thức ăn thích hợp vào đúng thời điểm của chúng ta. Về cơ bản, sự giải phóng tối đa các chất dinh dưỡng từ chúng được quan sát thấy vào nửa sau của mùa hè, khi nhu cầu về chất dinh dưỡng của cây giảm xuống, tất cả các quá trình sinh trưởng của cây bị chậm lại và không còn cần thức ăn dư thừa.

Thực vật cần chất dinh dưỡng trong đất hơn hết là vào nửa đầu mùa hè, khi chúng đạt được sự sinh trưởng và phát triển tối đa. Và phân hữu cơ không thể cung cấp điều này. Do đó, các đặc tính tiêu cực của phân hữu cơ trong nông nghiệp thực sự cần được san bằng bằng cách đưa chúng vào với phân vô cơ. Những tác động tích cực của việc sử dụng phức hợp với phân khoáng tăng lên theo cấp số nhân.

Phân bón hữu cơ
Phân bón hữu cơ

Có một nhóm phân hữu cơ khác là phân xanh hoặc phân xanh . Phân xanh là một khối lượng xanh của cây họ đậu hoặc các loại phân xanh khác được trồng với mục đích bón phân. Những cây như vậy thường được trồng ở độ sâu 15-18 cm trong giai đoạn ra hoa và hình thành hạt đậu đầu tiên. Về mặt hiệu quả, phân xanh có thể so sánh với phân bón, và với năng suất cao của phân xanh, chúng thậm chí còn tốt hơn. Điều đó.

Chúng có thể được trồng trọt và canh tác độc lập ở một nơi hoặc được canh tác đặc biệt trong một khoảnh đất cố định khác trong thời gian sau khi cắt cỏ để sử dụng lượng cắt hàng loạt ở lô liền kề làm phân bón. Trong hầu hết các trường hợp, cây họ đậu lâu năm như cây lupin được trồng cho mục đích này. Đối với phân xanh cho hiệu quả bón tối đa và đầy đủ hơn, bón lót 10 kg / m², 150-200 g / m² nitrophosphat, 500-800 g / m² bột dolomit trước khi gieo hạt. Phải bón cho cày bừa vào mùa xuân. Đất ở những nơi như vậy đã được cải tạo triệt để và chỉ có thể làm hài lòng người làm vườn với những đặc tính mới của nó.

Có thể bón phân xanh hàng năm sau khi thu hoạch chính vụ. Tiếp theo, cây thứ hai ở dạng khối xanh được nghiền nát bằng máy xén và chôn để đào vào mùa thu. Nó sẽ là một loại phân hữu cơ bổ sung, nhưng điều này không loại trừ việc sử dụng phân hữu cơ vào mùa xuân.

Liều lượng phân bón ước tính là 8-12 kg / m². Liều lượng phân gia súc bằng 1/10 so với phân chuồng. Liều lượng phân trộn và phân xanh như liều lượng phân bón. Thời hạn bón phân hữu cơ là vụ xuân, chỉ bón phân xanh vào thời kỳ chín rộ, thường là vào mùa hè thời kỳ ra hoa, trước khi trồng. Độ sâu trồng tối ưu để bón phân khi đào đất là 18 cm.

Vì vậy, nguyên tắc của phân hữu cơ là chỉ bón vào mùa xuân, trữ chất hữu cơ đến mùa xuân và sử dụng để canh tác vào mùa xuân. Chỉ khi đó, chúng mới có tác động mạnh nhất đến đất và cây trồng. Phân hữu cơ được sử dụng cho tất cả các loại cây ăn quả và quả mọng và rau.

Phân bón hữu cơ
Phân bón hữu cơ

Có rất nhiều sai lầm khi sử dụng phân hữu cơ trong biệt thự mùa hè . Đây là sự ra đời của chỉ một loại phân hữu cơ, không kết hợp với một loại phân vô cơ và không xem xét các đặc tính tiêu cực của các loại phân này. Nó thường được bón vào mùa thu, nhưng hiệu quả là tối thiểu trong thời kỳ mùa thu và mùa xuân vì nhiều chất dinh dưỡng bị rửa trôi khỏi phân bón.

Có thể cho phép nhúng nông hoặc nhúng quá sâu vào đất, làm giảm hiệu quả. Trong một số trường hợp, việc bón bề mặt của phân hữu cơ mà không cần nhúng được thực hiện, nhưng điều này là hoàn toàn không thể chấp nhận được vì tất cả các phẩm chất tích cực của các loại phân này đã bị mất đi. Người làm vườn có thể xếp và lưu trữ phân bón hữu cơ trong thời gian dài, dẫn đến mất đi đáng kể lượng khí cacbonic, nitơ và bản thân phân bón. Chúng cũng có thể nằm rải rác khắp ruộng và có thể không bám vào đất trong thời gian dài.

Sự mất mát các chất dinh dưỡng là rất lớn. Nó cũng vi phạm hệ thống ủ phân. Trong trường hợp này, phân bón không đảm bảo yêu cầu vệ sinh, an toàn vệ sinh môi trường, nhất là khi chế biến thành phân than bùn.

Khác với phân hữu cơ, phân khoáng là loại phân có tác dụng nhanh. Các chất dinh dưỡng mà chúng chứa có thể được sử dụng bởi thực vật ngay khi chúng được đưa vào đất. Do đó, với sự hỗ trợ của phân khoáng, việc đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng thay đổi của cây trồng trong các giai đoạn sinh trưởng và phát triển trong ngày và suốt mùa sinh trưởng trở nên dễ dàng hơn.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây

  Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây Tên khoa học:  Globodera rostochiensis Wollenweber, 1923,G.pallida Stone, 1973           Là một trong những loài tuyến trùng hại khoai tây. Nếu cây bị nhiễm làm cho cây phát triển còi cọc, lá héo có thể làm chết cây. Nhiễm ở mức nghiêm trọng dẫn đến thiệt hại năng suất củ lên đến 80%. 1. Nguồn gốc           Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây là do tuyến trung G.pallida gây nên. Loại tuyến trùng này là loài phi bản địa có nguồn gốc từ Châu Âu. Lần đầu tiên phát hiện ở miền đông Idaho trong tháng 4 năm 2006. Cho đến nay, nó được phát hiện thấy và bị hạn chế tại 17 cánh đồng bị nhiễm khuẩn đại diện cho tổng số 1.916 mẫu Anh ở Bingham và Bonneville của Idaho. Mặc dù G.pallida bị giới hạn phân bố địa lý, sự hiện diện của chúng trong đất trồng tại mỹ đã có tác động sâu rộng làm đóng cửa, hạn chế thị trường xuất khẩu, giảm giá trị đất nông nghiệp và các khó khăn kinh tế khác. 2. Triệu chứng           Triệu chứng thể hiện lá biến vàng, l

Bệnh lùn sọc đen hại lúa, ngô

  Bệnh lùn sọc đen hại lúa, ngô Tên khoa học:  SRBSDV (Southern Rice Black-Streaked Dwarf Virus)            Để hạn chế tối đa ảnh hưởng,giảm mức thiệt hại do bệnh gây ra, người dân cần thiết áp dụng các biện pháp đồng bộ phòng trừ kịp thời ngay từ đầu vụ mới có thể đảm bảo năng suất lúa, ngô. 1 Triệu chứng gây hại 1.1 Gây hại trên cây lúa - Khi bắt đầu nhiễm bệnh rễ cây vẫn phát triển bình thường, về sau rễ kém phát triển dần, ngắn và sau đó chết. - Triệu chứng điển hình để nhận biết được xác định ít nhất 2 tuần qua môi giới truyền bệnh là rầy mang virus chích hút vào cây lúa khỏe. - Cây bị bệnh thường thấp lun, lá xanh đập hơn bình thường. Lá lúa bị xoăn ở đầu lá hoặc toàn bộ lá. Gân lá ở mặt sau bị sưng lên. Khi cây còn nhỏ, gân chính trên bẹ lá cũng bị phồng sưng. - Nếu cây bị nhiễm ở giai đoạn làm đòng và khi lúa có lóng, cây nhiễm bệnh thường nảy chồi trên đối thân và mọc nhiều rễ bất định. Trên bẹ và lóng thân mọc nhiều u sáp và bọc đen. Ở giai đoạn lúa trỗ, triệu c

Cây dược liệu Dây bông xanh

  Cây Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora (Roxb. ex Rottl.) Roxb Dược liệu Dây bông xanh có vị ngọt, tính bình; có tác dụng tiêu sưng, tiêu viêm, làm lành vết thương. Vỏ rễ dùng chữa đòn ngã tổn thương, đụng giập. Lá sắc uống dùng trị đau dạ dày. Dây và lá dùng đắp ngoài trị rắn cắn, đinh nhọt.   Hình ảnh cây Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora (Roxb. ex Rottl.) Roxb., thuộc họ Dây bông xanh - Thunbergiaceae. Bộ phận dùng:  Vỏ rễ, dây và lá -  Cortex Radicis, Caulis et Folium Thunbergiae . Nơi sống và thu hái:  Cây của vùng Đông Dương, mọc hoang ở đồng bằng và vùng núi nhiều nơi khắp nước ta. Cũng được trồng làm cây cảnh. Thu hái rễ vào mùa hè thu, tách lấy vỏ và bỏ lõi gỗ. Thu hái dây và lá quanh năm, dùng tươi hay phơi khô trong râm để dùng dần. Tính vị, tác dụng:  Dây bông xanh có vị ngọt, tính bình; có tác dụng tiêu sưng, tiêu viêm, làm lành vết thương. Công dụng, chỉ định và phối hợp:  Vỏ rễ dùng chữa đòn n