Chuyển đến nội dung chính

Chính sách quyền riêng tư,

Hướng dẫn trồng và chăm sóc cây Ô đầu " Nữ hoàng độc dược" (Monkshood)Aconitum napellus

 

Cách trồng Ô đầu



Có nguồn gốc từ các khu vực miền núi ở châu Âu và châu Á, Ô đầu là một loài hoa thân thảo cao lâu năm , nở vào cuối mùa hè và chịu bóng một phần rất tốt. Có khoảng 250 loài aconite, nhưng Aconitum napellus là loại cây cảnh được trồng phổ biến nhất.

Nữ hoàng độc dược hay bả sói là những biệt danh dùng để chỉ loài hoa Ô đầu chứa chất kịch độc làm liệt cơ xương, loạn nhịp tim, gây tử vong cho người.

Cây hoa Ô đầu chứa một loạt hóa chất có độc tố cao như aconitine, mesaconitine, hypaconitine và jesaconitine. Nếu hái lá cây mà không dùng găng tay, chất aconitine có thể xâm nhập vào cơ thể người một cách dễ dàng qua da.

Chất độc trên cây Ô đầu tập trung đậm đặc nhất ở phần quả của cây, ngay cả cánh và mật hoa cũng chứa chất độc. Khi trúng độc tố của cây Ô đầu có thể làm tứ chi bị tê bì, buồn nôn, đau bụng, tiêu chảy, loạn nhịp tim, nếu đủ liều có thể gây tử vong.

Là một loài hoa phát triển chậm vừa phải, Ô đầu đặc trưng với những chiếc lá màu nhẵn với những thùy sâu và những chùm hoa màu xanh lam hoặc trắng trên những thân cây cứng cáp, không phân nhánh. Được trồng vào đầu mùa xuân, những bông hoa tu hú bắt đầu ra vào giữa mùa hè và có năm đài hoa - đài hoa trên cùng cong xuống, tạo cho hoa vẻ ngoài giống như chiếc mũ trùm đầu, trong khi những cánh hoa thực sự được giấu bên trong mũ.


Cây ô đầu là một loại cây cực độc. Cả người và động vật đều có thể bị ngộ độc nặng khi vô tình ăn phải loài cây này. Ngoài tính độc dược, chỉ những thầy thuốc có kinh nghiệm mới sử dụng sản phẩm từ cây ô đầu và chỉ sử dụng sau khi đã được bào chế.

Trong y học Trung Quốc, người ta thường dùng bộ phận rễ cây để bào chế thuốc. Cây ô đầu có tính nhiệt rất cao nên thường được dùng để chữa các bệnh phong hàn và trị chứng khó tiêu. Cây ô đầu có tính chất tương tự như các loại thuốc chống kích thích. Ngoài ra, cây ô đầu còn có mặt trong một số vị thuốc như: Ô nhuê, trắc tử, thiên hùng.

Rễ củ tươi thường gọi là ô đầu và rễ củ đã chế biến sẽ gọi là phụ tử.

Ánh sáng

Monkshood có thể xử lý cả ánh nắng mặt trời hoàn toàn và bóng râm một phần. Thông thường, chỗ càng nắng càng tốt cho hoa nở - tuy nhiên, nếu bạn sống ở một khu vực đặc biệt ấm áp , bạn nên chọn chỗ có bóng râm một phần để không làm cháy những cánh hoa mỏng manh. Nếu bạn nhận thấy phần đầu hoặc thân của hoa rũ xuống, có thể nó đang nhận quá nhiều bóng râm. Nếu việc di chuyển cây của bạn không phải là một lựa chọn (như trong trường hợp trồng trong chậu hoặc vườn trong thùng), hãy sử dụng cọc để giữ chúng thẳng đứng.

Đất

Ô đầu phát triển tốt nhất trong môi trường ẩm ướt. Thông thường, điều đó có nghĩa là một hỗn hợp đất phong phú - tuy nhiên, trong trường hợp của các nhà sư, điều đó có thể có nghĩa là một hỗn hợp hữu cơ đậm đặc hoặc một hỗn hợp nhiều đá, nhiều núi. Yêu cầu duy nhất: Vị trí được chọn cần thoát nước tốt để tránh thối rễ . Cây ưa độ pH của đất từ trung tính đến hơi chua nhưng sẽ chịu được các loại đất khác miễn là chúng đáp ứng các tiêu chí trên.

Nước

Cây Ô đầu thích được giữ ẩm nhất quán nhưng không bị úng nước. Tưới nước thường xuyên là rất quan trọng trong thời kỳ sinh trưởng của nó (mùa xuân) và một khi đã được hình thành, ô đầu có thể chịu được hạn hán trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, nếu đó là một loài thực vật có hoa khỏe mạnh và tươi tốt mà bạn mong muốn, hãy cung cấp đất ẩm nhất quán và tưới nước thường xuyên trong suốt thời gian tồn tại của nó.

Nhiệt độ và độ ẩm

Hoa Ô đầu thích thời tiết mát mẻ hơn, phát triển mạnh trong cảnh quan miền núi không có nhiều độ ẩm hoặc nhiệt độ cao. Hãy nhớ rằng, thời tiết càng ấm thì cây càng cần nhiều bóng râm.

Phân bón

Cho ăn luôn phụ thuộc vào chất lượng đất của bạn. Bắt đầu với đất giàu dinh dưỡng, nhiều chất hữu cơ, sau đó bón lót bằng phân trộn và một ít phân hữu cơ vào mỗi mùa xuân.


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây

  Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây Tên khoa học:  Globodera rostochiensis Wollenweber, 1923,G.pallida Stone, 1973           Là một trong những loài tuyến trùng hại khoai tây. Nếu cây bị nhiễm làm cho cây phát triển còi cọc, lá héo có thể làm chết cây. Nhiễm ở mức nghiêm trọng dẫn đến thiệt hại năng suất củ lên đến 80%. 1. Nguồn gốc           Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây là do tuyến trung G.pallida gây nên. Loại tuyến trùng này là loài phi bản địa có nguồn gốc từ Châu Âu. Lần đầu tiên phát hiện ở miền đông Idaho trong tháng 4 năm 2006. Cho đến nay, nó được phát hiện thấy và bị hạn chế tại 17 cánh đồng bị nhiễm khuẩn đại diện cho tổng số 1.916 mẫu Anh ở Bingham và Bonneville của Idaho. Mặc dù G.pallida bị giới hạn phân bố địa lý, sự hiện diện của chúng trong đất trồng tại mỹ đã có tác động sâu rộng làm đóng cửa, hạn chế thị trường xuất khẩu, giảm giá trị đất nông nghiệp và các khó khăn kinh tế khác. 2. Triệu chứng           Triệu chứng thể hiện lá biến vàng, l

Bệnh lùn sọc đen hại lúa, ngô

  Bệnh lùn sọc đen hại lúa, ngô Tên khoa học:  SRBSDV (Southern Rice Black-Streaked Dwarf Virus)            Để hạn chế tối đa ảnh hưởng,giảm mức thiệt hại do bệnh gây ra, người dân cần thiết áp dụng các biện pháp đồng bộ phòng trừ kịp thời ngay từ đầu vụ mới có thể đảm bảo năng suất lúa, ngô. 1 Triệu chứng gây hại 1.1 Gây hại trên cây lúa - Khi bắt đầu nhiễm bệnh rễ cây vẫn phát triển bình thường, về sau rễ kém phát triển dần, ngắn và sau đó chết. - Triệu chứng điển hình để nhận biết được xác định ít nhất 2 tuần qua môi giới truyền bệnh là rầy mang virus chích hút vào cây lúa khỏe. - Cây bị bệnh thường thấp lun, lá xanh đập hơn bình thường. Lá lúa bị xoăn ở đầu lá hoặc toàn bộ lá. Gân lá ở mặt sau bị sưng lên. Khi cây còn nhỏ, gân chính trên bẹ lá cũng bị phồng sưng. - Nếu cây bị nhiễm ở giai đoạn làm đòng và khi lúa có lóng, cây nhiễm bệnh thường nảy chồi trên đối thân và mọc nhiều rễ bất định. Trên bẹ và lóng thân mọc nhiều u sáp và bọc đen. Ở giai đoạn lúa trỗ, triệu c

Cây dược liệu Dây bông xanh

  Cây Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora (Roxb. ex Rottl.) Roxb Dược liệu Dây bông xanh có vị ngọt, tính bình; có tác dụng tiêu sưng, tiêu viêm, làm lành vết thương. Vỏ rễ dùng chữa đòn ngã tổn thương, đụng giập. Lá sắc uống dùng trị đau dạ dày. Dây và lá dùng đắp ngoài trị rắn cắn, đinh nhọt.   Hình ảnh cây Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora (Roxb. ex Rottl.) Roxb., thuộc họ Dây bông xanh - Thunbergiaceae. Bộ phận dùng:  Vỏ rễ, dây và lá -  Cortex Radicis, Caulis et Folium Thunbergiae . Nơi sống và thu hái:  Cây của vùng Đông Dương, mọc hoang ở đồng bằng và vùng núi nhiều nơi khắp nước ta. Cũng được trồng làm cây cảnh. Thu hái rễ vào mùa hè thu, tách lấy vỏ và bỏ lõi gỗ. Thu hái dây và lá quanh năm, dùng tươi hay phơi khô trong râm để dùng dần. Tính vị, tác dụng:  Dây bông xanh có vị ngọt, tính bình; có tác dụng tiêu sưng, tiêu viêm, làm lành vết thương. Công dụng, chỉ định và phối hợp:  Vỏ rễ dùng chữa đòn n