Chuyển đến nội dung chính

Chính sách quyền riêng tư,

Hướng dẫn trồng và chăm sóc cây lanh (Flax)

 

Cách trồng cây lanh


Có nguồn gốc từ Trung Á và khu vực Địa Trung Hải, cây lanh ban đầu được trồng ở Mesopotamia, Assyria và Ai Cập trong hơn 5.000 năm. Cây lanh ( Linum usitatissimum ) là một trong những cây trồng đầu tiên được loài người thuần hóa, ban đầu được sử dụng để lấy chất xơ. Chỉ khi bông gin được phát minh thì sản lượng lanh mới bắt đầu giảm. Bây giờ, Nó đang trải qua sự hồi sinh trong việc trồng loại thảo mộc hàng năm này và sự đánh giá mới đối với vẻ đẹp hoang dã của nó và những công dụng thiết thực của chất xơ, dầu và hạt của cây.

Mặc dù những người làm vườn bình thường có thể không xử lý được vải lanh hoặc dầu hạt lanh của cây trồng, nhưng thu hoạch hạt lanh đã trở thành một thú vui khá phổ biến.

Ngoài bản chất linh hoạt như vậy, loài thực vật khá dễ trồng này còn tạo thêm sự kỳ lạ nhất định cho bất kỳ vườn hoa dại nào và nó rất dễ trồng. Loại thảo mộc mọc thẳng hàng năm này cao từ ba đến bốn mét, có nhiều lá phẳng màu xanh xám. Hoa năm lá đài nhỏ có màu xanh da trời (và đôi khi có màu trắng hoặc hồng nhạt ở một số giống khác). Trong mỗi quả nang năm tế bào có tới 10 hạt màu vàng, nâu nhạt hoặc nâu sẫm. Học cách gieo hạt và chăm sóc cây một cách nhất quán để kéo dài vụ thu hoạch từ mùa hè đến mùa thu.

Chăm sóc cây lanh

Có hơn 300 giống lanh. Chọn một cái sẽ đáp ứng mục đích sử dụng chính mong muốn. Các giống phân nhánh ngắn hơn là tốt nhất để sản xuất hạt giống. Các giống thân dài, phân nhánh thưa thớt tự nhiên sẽ tốt hơn cho việc sản xuất chất xơ.

Tương tự như những người anh em họ hoa dại của nó là lanh xanh và lanh đỏ, cây lanh thông thường là một loại cây mùa mát. Hạt giống cũng có thể được bắt đầu trong nhà từ sáu đến tám tuần trước khi đợt sương giá cuối cùng. Vì rễ cây lanh rất nhạy cảm, bạn nên cấy cây con vào các thùng lớn hơn để tránh chúng bị dính rễ.

Để khuyến khích sự phát triển của rễ nhanh, không bị xáo trộn, nên gieo hạt trực tiếp. Trồng hạt giống khi mặt đất có thể được làm việc vào đầu mùa xuân. Những cây con có ít nhất hai lá có thể sống sót qua sương giá muộn ở nhiệt độ thấp tới 28 độ F ( -2 độ C).



Ánh sáng

Chọn một vị trí có đầy đủ ánh nắng mặt trời. Cây lanh không thể phát triển trong bóng râm.

Đất

Cây lanh ưa đất hơi chua đến trung tính, màu mỡ và thoát nước tốt. Tốt nhất là đất cát hoặc nhiều mùn. Nếu đất nghèo, chuẩn bị mặt bằng bằng cách trộn nhiều chất hữu cơ như phân trộn hoặc phân chuồng.

Thực vật phát triển mạnh gần nhau. Rắc một thìa hạt giống trên 10 feet vuông để chào đón khoảng 40 cây trên mỗi feet vuông. Cho rằng hạt rất nhỏ, hãy phủ chúng bằng bột mì để chúng phân tán đều hơn.

Nước

Xới đất nhẹ nhàng để vùi hạt với nửa tấc đất. Rải hạt xuống để đảm bảo hạt tiếp xúc trực tiếp với đất. Xịt kỹ bằng nước; điều này sẽ cung cấp độ ẩm thích hợp đồng thời không làm chết hạt. Tiếp tục tưới nước thường xuyên. Hạt sẽ nảy mầm trong khoảng 10 ngày.

Khi cây trưởng thành, điều kiện quá khô có thể khiến chúng trở nên lùn và hóa gỗ. Duy trì độ ẩm rộng rãi mà không bị ướt hoặc úng. Phủ một lớp mùn mỏng để kiểm soát độ ẩm và cỏ dại. Tránh trồng ở những nơi có gió bão lớn, tránh xa nơi phun muối.

Sâu bọ

Cây lanh chịu được "bệnh tật, hạn hán, nấm, chăn thả gia súc, thuốc diệt cỏ, hydro florua, độ pH cao, thuốc trừ sâu, bệnh gỉ sắt, vi rút và cỏ dại" (theo Trung tâm Cây trồng & Thực vật mới của Đại học Purdue trích dẫn Trung tâm Trung Á, Cận Đông và Địa Trung Hải của Đa dạng).


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây

  Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây Tên khoa học:  Globodera rostochiensis Wollenweber, 1923,G.pallida Stone, 1973           Là một trong những loài tuyến trùng hại khoai tây. Nếu cây bị nhiễm làm cho cây phát triển còi cọc, lá héo có thể làm chết cây. Nhiễm ở mức nghiêm trọng dẫn đến thiệt hại năng suất củ lên đến 80%. 1. Nguồn gốc           Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây là do tuyến trung G.pallida gây nên. Loại tuyến trùng này là loài phi bản địa có nguồn gốc từ Châu Âu. Lần đầu tiên phát hiện ở miền đông Idaho trong tháng 4 năm 2006. Cho đến nay, nó được phát hiện thấy và bị hạn chế tại 17 cánh đồng bị nhiễm khuẩn đại diện cho tổng số 1.916 mẫu Anh ở Bingham và Bonneville của Idaho. Mặc dù G.pallida bị giới hạn phân bố địa lý, sự hiện diện của chúng trong đất trồng tại mỹ đã có tác động sâu rộng làm đóng cửa, hạn chế thị trường xuất khẩu, giảm giá trị đất nông nghiệp và các khó khăn kinh tế khác. 2. Triệu chứng           Triệu chứng thể hiện lá biến vàng, l

Bệnh lùn sọc đen hại lúa, ngô

  Bệnh lùn sọc đen hại lúa, ngô Tên khoa học:  SRBSDV (Southern Rice Black-Streaked Dwarf Virus)            Để hạn chế tối đa ảnh hưởng,giảm mức thiệt hại do bệnh gây ra, người dân cần thiết áp dụng các biện pháp đồng bộ phòng trừ kịp thời ngay từ đầu vụ mới có thể đảm bảo năng suất lúa, ngô. 1 Triệu chứng gây hại 1.1 Gây hại trên cây lúa - Khi bắt đầu nhiễm bệnh rễ cây vẫn phát triển bình thường, về sau rễ kém phát triển dần, ngắn và sau đó chết. - Triệu chứng điển hình để nhận biết được xác định ít nhất 2 tuần qua môi giới truyền bệnh là rầy mang virus chích hút vào cây lúa khỏe. - Cây bị bệnh thường thấp lun, lá xanh đập hơn bình thường. Lá lúa bị xoăn ở đầu lá hoặc toàn bộ lá. Gân lá ở mặt sau bị sưng lên. Khi cây còn nhỏ, gân chính trên bẹ lá cũng bị phồng sưng. - Nếu cây bị nhiễm ở giai đoạn làm đòng và khi lúa có lóng, cây nhiễm bệnh thường nảy chồi trên đối thân và mọc nhiều rễ bất định. Trên bẹ và lóng thân mọc nhiều u sáp và bọc đen. Ở giai đoạn lúa trỗ, triệu c

Cây dược liệu Dây bông xanh

  Cây Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora (Roxb. ex Rottl.) Roxb Dược liệu Dây bông xanh có vị ngọt, tính bình; có tác dụng tiêu sưng, tiêu viêm, làm lành vết thương. Vỏ rễ dùng chữa đòn ngã tổn thương, đụng giập. Lá sắc uống dùng trị đau dạ dày. Dây và lá dùng đắp ngoài trị rắn cắn, đinh nhọt.   Hình ảnh cây Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora (Roxb. ex Rottl.) Roxb., thuộc họ Dây bông xanh - Thunbergiaceae. Bộ phận dùng:  Vỏ rễ, dây và lá -  Cortex Radicis, Caulis et Folium Thunbergiae . Nơi sống và thu hái:  Cây của vùng Đông Dương, mọc hoang ở đồng bằng và vùng núi nhiều nơi khắp nước ta. Cũng được trồng làm cây cảnh. Thu hái rễ vào mùa hè thu, tách lấy vỏ và bỏ lõi gỗ. Thu hái dây và lá quanh năm, dùng tươi hay phơi khô trong râm để dùng dần. Tính vị, tác dụng:  Dây bông xanh có vị ngọt, tính bình; có tác dụng tiêu sưng, tiêu viêm, làm lành vết thương. Công dụng, chỉ định và phối hợp:  Vỏ rễ dùng chữa đòn n