Chuyển đến nội dung chính

Chính sách quyền riêng tư,

Thông tin miêu tả cây dược liệu Trầm hương, cây dó bầu

 

1. Hình ảnh rừng Cây dó bầu - Aquilaria crassna

Hình ảnh rừng Cây dó bầu - Aquilaria crassna

Trầm hay trầm hương, trầm dó, dó bầu, dó núi (danh pháp khoa học: Aquilaria crassna) là một loài thực vật thuộc họ Trầm. Loài này phân bố ở Đông Nam Á và đảo New Guinea. Tại Việt Nam, cây trầm phân bố ở Hà Giang đến Phú Quốc

Tên Khoa học: Aquilaria crassna Pierre ex Lecomte

Tên tiếng Việt: Trầm; Trầm hương; Trầm dó; Dó bầu; Gió núi.

Tên khác: Aquilaria agallocha auct, non Roxb.;

Tên nước ngoài: Agarwood, Malayan aloeswood, Malayan eaglewood (Anh). Bois d’aigle, Calambac, Calambour (Pháp). Tuchenxiang (tiếng phổ thông Ch’en Hsiang) (Trung Quốc). Crassna, Krassna, Kresna, Chan krassna, Klampeok (Campuchia). Gaharu, Tengkaras, Mengkaras (Inđônêxia).

MÔ TẢ: Dó bầu là một loại cây gỗ thường xanh, cao 20 – 30 m, đường kính thân đạt 60 – 80 cm, thân thường thẳng, đôi khi có rãnh dạng lòng máng; bạch gốc cao tới 2 m; vỏ ngoài nhẵn, màu nâu xám, thịt vỏ màu trắng có nhiều chất xơ (celluloz), nứt dọc lăn tăn, dễ bóc và tước ngược từ gốc lên; cành mảnh, cong queo, màu nâu nhạt, có lông hoặc nhẵn, tán thưa. Lá đơn, mọc cách (so le); cuống lá dài 4 – 6 mm; phiến lá hình trứng, bầu dục thuôn đến mác thuôn, kích thước 8 – 15 x 2,5 – 9 cm, mỏng như giấy hoặc dai gần như da, mặt trên màu lục bóng, mặt dưới nhạt hơn và có lông mịn; gốc lá thon nhọn dần hay tù; chóp lá nhọn, thuôn nhọn, tận cùng có mũi; gân bên 15 – 18 đôi, thay đổi thất thường, khá rõ ở mặt dưới. Cụm hoa hình tán hoặc chùm tán, mọc ở nách lá hoặc ở đầu cành, cuống cụm hoa mảnh, dài 2 – 3 cm. Hoa nhỏ, mẫu 5; đài hợp ở phần dưới, hình chuông, màu vàng lục, trắng nhạt hoặc vàng xám, phía ngoài có lông thưa; mặt trong gần như nhẵn, có 10 đường gân rõ; tồn tại ở quả; 5 thùy dài hình trứng thuôn, dài 12 – 15 mm. Phần phụ dạng cánh hoa, đính gần họng đài; nhị 10; bầu hình trứng, 2 ô, có lông rậm, gốc bầu có tuyến mật. Quả nang gần hình trứng ngược, hình quả lê, dài 4 cm, đường kính 2,5 – 3 cm, có lông mềm, ngắn, có mang dài tồn tại, khi khô nứt làm 2 mảnh, thường mỗi quả chỉ có một hạt.

2. Sự phân bố của trầm hương trong tự nhiên:

Trong tự nhiên giống cây Aquilaria, tức cây trầm hương, phân bố khắp các nước vùng Châu Á từ Trung - Cận Đông, Nam Á, Trung Quốc cho đến các nước Đông Nam Á…
- Ở vùng Trung – Cận Đông cây trầm hương mọc nhiều trên những rặng núi hiểm trở phía nam Ả Rập.

Ở Trung Quốc trầm hương mọc tập trung ở một số tỉnh miền nam, nhiều nhất là Quảng Đông và Hải Nam, nhưng chất lượng trầm không cao (Thổ Trầm). Vùng này có 3 loài chính, đó là: Aquilaria grandiflora Bth, Aquilaria sinensis Merr, Aquilaria yunnanensis S.C. Huang.
 Ở vùng Nam Á cây trầm hương có nhiều ở Ấn Độ, chủ yếu là loài Aquilaria khasiana H. Hallier

Ở Việt Nam cây trầm hương phân bố tại các địa bàn như:

Phía Bắc: Hoàng Liên Sơn, Vĩnh Phú, Hòa Bình, Hà Tây, Quảng Ninh, Bắc Hà, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Bắc.
Miền Trung: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tỉnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Đà Nẳng, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú yên, Khánh Hòa.
Tây Nguyên: Gia Lai, Kontum, Đắc Lắk.
Miền Nam: Bình Thuận, Lâm Đồng, Bình Phước, Đồng Nai, Tây Ninh, An Giang, Kiên Giang, Đảo Phú Quốc.
Đặc biệt thấy nhiều trên suốt chiều dài của dãy Trường Sơn, song do sự khai thác bừa bãi của dân, đến nay chỉ còn thấy cây Dó Bầu ở những vùng xa xôi, đầu nguồn rừng già.

3. Đặc điểm hình thái :

Thân cây: Cây dó bầu là một loại cây gỗ lớn, cao khoảng 30-40m, nhưng phổ biến nhất là từ 15-25m, đường kính thân khoảng 60cm, vỏ ngoài nhẵn, màu xám, thịt vỏ màu trắng có nhiều chất xơ (cellulo) và dễ tách ra khỏi thân. Thịt gỗ màu vàng nhạt, chất gỗ mềm có tỉ trọng 0.395. Cành non phủ lông mềm màu vàng xám

Lá: Lá đơn, mọc cách (so le), có hình bầu dục, hình trứng hay hình ngọn giáo, nhọn ở gốc thon hẹp ở đầu. Phiến lá mỏng dài 8-15 cm, rộng 4-6 cm. Mặt trên phiến lá nhẵn bóng có màu xanh đậm, mặt dưới nhạt hơn có lông mềm. Cuống lá dài từ 4-5mm cũng có lông.

Hoa: Hoa lưỡng tính, hoa tự hình tán hay chùm mọc ở nách lá, hoa màu trắng tro. Đài hoa hình chuông (loa kèn) có lông ở miệng.

Quả: Quả nang, hình quả lê hơi dẹp, dài 4cm, rộng 3cm, dày 2cm. Vỏ quả mở thành hai mảnh xốp (khi chín tự tách ra), mỗi quả có từ 1-2 hạt.

Hạt: Có hai phần, phần chính ở phía trên hình nón, phần kéo dài ở phía dưới. Hạt khi chín có màu nâu, phần vỏ ngoài cùng hóa gỗ cứng, bên trong mềm có chứa nhiều dầu. Một đặc điểm cần chú ý là hạt dó bầu có đời sống rất ngắn (short-lived), không lưu trữ lâu ngày được. Trong tự nhiên khi hạt chín và rụng xuống đất nếu gặp điều kiện ẩm độ thích hợp là nảy mầm ngay. Việc lưu trữ hạt kéo dài quá một tuần lễ, tỉ lệ nảy mầm sẽ giảm 80% hoặc không nảy mầm.

Thời gian ra hoa kết trái: Cây dó bầu sau trồng khoảng 4-5 năm tuổi thì bắt đầu ra hoa kết trái. Tùy vào điều kiện thời tiết của mỗi vùng mà thời gian ra hoa có khác nhau. Ở Miền Trung Việt Nam cây bắt đầu ra hoa vào tháng 3 và trái chín vào tháng 7 dương lịch. Nhưng ở Miền Nam thời gian ra hoa tháng 2, trái chín tháng 5 – tháng 6 dương lịch.

4. Công dụng

Trầm là một sản phẩm đặc biệt, nổi tiếng, quý, hiếm; do có chứa nhựa dầu được tạo thành trong lõi, gỗ của những cây già hay cây bị bệnh. Các loài Trầm hương – A. crassna (phân bố ở Đông Dương), A. malaccensis(phân bố từ Ấn Độ đến Đông Nam Á) và A. sinensis (Lour.) (sinh trưởng ở miền Nam Trung Quốc) đều là nguồn cung cấp trầm có giá trị và quan trọng nhất của chi Trầm.

Trên thị trường rất khó phân biệt sản phẩm trầm từ 3 loài này, và thực tế chung cùng có tên gọi chung là “trầm” và cùng được sử dụng tương tự nhau.

Hương thơm hấp dẫn của Trầm khi cháy đã được đánh giá rất cao ở nước ta, Trung Quốc, Ấn Độ và nhiều nước Châu Á từ hàng ngàn năm trước đây. Trầm được sử dụng là hương thắp trong các dịp lễ hội của các tín đồ đạo Phật, đạo Khổng và đạo Hinđu… ở khắp các nước Đông Á, Nam Á và Đông Nam Á. Tại Thái Lan, Trầm được sử dụng khi hoả táng thi hài người chết. Còn ở Nhật Bản, hương trầm lại rất được coi trọng trong các dịp lễ hội uống chè. Các vua quan phong kiến nước ta từ xưa đã dùng Trầm làm vật phẩm để cúng tiến.

Tinh dầu trầm có giá trị đặc biệt, được dùng trong công nghệ chế biến các loại chất thơm, các loại nước hoa cao cấp, đắt tiền. Mùi của trầm vừa phản phất mùi của tinh dầu đinh hương, vừa có mùi thơm của hoa hồng. Các hoá mỹ phẩm có chứa tinh dầu trầm rất được ưa chuộng, đặc biệt ở khu vực Trung Đông và Ấn Độ.

Lớp vỏ trong ánh bạc ở thân cây có thể bóc được từng mảng lớn, phẳng và bền. Đây cũng là sản phẩm quý mà trước đây các tín đồ tôn giáo ở Ấn Độ, Sumatra (Indonesia) đã dùng làm giấy sao chép kinh thánh hoặc may các bộ quần áo sang trọng và gói bọc thi hài.

Trong y học cổ truyền ở nước ta, Trầm hương được coi là vị thuốc quý,  hiếm, có vị cay, tính hơi ôn, vào 3 kinh tỳ, vị và thận; có tác dụng giáng khí, nạp thận, bình can, tráng nguyên dương; được dùng chủ yếu để chữa các bệnh đau ngực, bụng, nôn mửa, bổ dạ dãy, hen suyễn, lợi tiểu, giảm đau, trấn tĩnh, hạ sốt, cấm khẩu và khó thở.

Trong y học ở phương Tây, ở Ấn Độ và Trung Quốc, hương trầm được sử dụng để điều trị bệnh ung thư, đặc biệt là với bệnh ung thư tuyến giáp trạng.

Y học cổ truyền Trung Quốc coi Trầm là vị thuốc có tác dụng chữa các bệnh đau bụng, tiêu chảy, hoen suyễn, kích dục, tráng dương và tiêu hoá tốt.

Nền y học dân tộc Thái Lan lại dùng Trầm để điều trị các bệnh tiêu chảy, lợi tiểu, hạ sốt, chống nôn, bổ huyết và trợ tim.

Hương trầm được dùng để thắp xua muỗi và côn trùng có hại.

Dăm gỗ trầm cũng được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau, đặc biệt là chữa bệnh thấp khớp, bệnh đậu mùa, bệnh đau bụng và dùng cho phụ nữ sau khi sinh con.

Nước sắc từ gỗ trầm nghe nói là có tác dụng kháng khuẩn, đặc biệt là với các loại khuẩn Mycobacterium tuberculosis và Shigella flexneri.

Gỗ từ những cây trầm hương không bị bệnh thường nhẹ, có thể dùng là đóng gỗ, làm gỗ dán và làm cánh cửa ở trường hợp chịu tải nhẹ.

5. Các nghiên cứu về tinh dầu Trầm Hương

 Năm 1960, Sadgopal đã nghiên cứu hàm lượng tinh dầu chứa trong mẫu cây khác nhau có độ tuổi từ 10 – 80 năm tuổi bằng phương pháp chưng cất hơi nước, và kết quả hàm lượng tinh dầu thu được là vào khoảng từ 0,1% – 1,2%.

Năm 1963, Maheshwari nghiên cứu việc tách phân đoạn ở nhiệt độ thấp tinh dầu trầm hương, mà trước đây đã được thực hiện bằng việc trích bằng dung môi ở nhiệt độ phòng từ một số loại gỗ đã bị nhiễm nấm có nguồn gốc từ Ấn Độ. Sau đó, kết hợp giữa sắc ký khí và sắc ký cột, nhóm nghiên cứu này đã kết luận rằng họ đã tổng hợp được ba hợp chất furanosesquiterpen mới, thuộc nhóm selinan. 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây

  Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây Tên khoa học:  Globodera rostochiensis Wollenweber, 1923,G.pallida Stone, 1973           Là một trong những loài tuyến trùng hại khoai tây. Nếu cây bị nhiễm làm cho cây phát triển còi cọc, lá héo có thể làm chết cây. Nhiễm ở mức nghiêm trọng dẫn đến thiệt hại năng suất củ lên đến 80%. 1. Nguồn gốc           Bệnh tuyến trùng bào nang hại khoai tây là do tuyến trung G.pallida gây nên. Loại tuyến trùng này là loài phi bản địa có nguồn gốc từ Châu Âu. Lần đầu tiên phát hiện ở miền đông Idaho trong tháng 4 năm 2006. Cho đến nay, nó được phát hiện thấy và bị hạn chế tại 17 cánh đồng bị nhiễm khuẩn đại diện cho tổng số 1.916 mẫu Anh ở Bingham và Bonneville của Idaho. Mặc dù G.pallida bị giới hạn phân bố địa lý, sự hiện diện của chúng trong đất trồng tại mỹ đã có tác động sâu rộng làm đóng cửa, hạn chế thị trường xuất khẩu, giảm giá trị đất nông nghiệp và các khó khăn kinh tế khác. 2. Triệu chứng           Triệu chứng thể hiện lá biến vàng, l

Bệnh lùn sọc đen hại lúa, ngô

  Bệnh lùn sọc đen hại lúa, ngô Tên khoa học:  SRBSDV (Southern Rice Black-Streaked Dwarf Virus)            Để hạn chế tối đa ảnh hưởng,giảm mức thiệt hại do bệnh gây ra, người dân cần thiết áp dụng các biện pháp đồng bộ phòng trừ kịp thời ngay từ đầu vụ mới có thể đảm bảo năng suất lúa, ngô. 1 Triệu chứng gây hại 1.1 Gây hại trên cây lúa - Khi bắt đầu nhiễm bệnh rễ cây vẫn phát triển bình thường, về sau rễ kém phát triển dần, ngắn và sau đó chết. - Triệu chứng điển hình để nhận biết được xác định ít nhất 2 tuần qua môi giới truyền bệnh là rầy mang virus chích hút vào cây lúa khỏe. - Cây bị bệnh thường thấp lun, lá xanh đập hơn bình thường. Lá lúa bị xoăn ở đầu lá hoặc toàn bộ lá. Gân lá ở mặt sau bị sưng lên. Khi cây còn nhỏ, gân chính trên bẹ lá cũng bị phồng sưng. - Nếu cây bị nhiễm ở giai đoạn làm đòng và khi lúa có lóng, cây nhiễm bệnh thường nảy chồi trên đối thân và mọc nhiều rễ bất định. Trên bẹ và lóng thân mọc nhiều u sáp và bọc đen. Ở giai đoạn lúa trỗ, triệu c

Cây dược liệu Dây bông xanh

  Cây Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora (Roxb. ex Rottl.) Roxb Dược liệu Dây bông xanh có vị ngọt, tính bình; có tác dụng tiêu sưng, tiêu viêm, làm lành vết thương. Vỏ rễ dùng chữa đòn ngã tổn thương, đụng giập. Lá sắc uống dùng trị đau dạ dày. Dây và lá dùng đắp ngoài trị rắn cắn, đinh nhọt.   Hình ảnh cây Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora Dây bông xanh, Bông báo - Thunbergia grandiflora (Roxb. ex Rottl.) Roxb., thuộc họ Dây bông xanh - Thunbergiaceae. Bộ phận dùng:  Vỏ rễ, dây và lá -  Cortex Radicis, Caulis et Folium Thunbergiae . Nơi sống và thu hái:  Cây của vùng Đông Dương, mọc hoang ở đồng bằng và vùng núi nhiều nơi khắp nước ta. Cũng được trồng làm cây cảnh. Thu hái rễ vào mùa hè thu, tách lấy vỏ và bỏ lõi gỗ. Thu hái dây và lá quanh năm, dùng tươi hay phơi khô trong râm để dùng dần. Tính vị, tác dụng:  Dây bông xanh có vị ngọt, tính bình; có tác dụng tiêu sưng, tiêu viêm, làm lành vết thương. Công dụng, chỉ định và phối hợp:  Vỏ rễ dùng chữa đòn n